Dù tự ái dân tộc có nở lớn đến thế nào đi chăng nữa, tôi cũng chẳng thể nói đũa là thứ quốc hồn quốc túy của đất nước ta. Chung quanh chúng ta, người Hoa, người Nhật, người Cao Ly... cũng dùng đũa. Nhưng đi vào nếp sống văn hóa của dân Việt Nam thì đũa có lẽ là một vị khách quý. Vơ đũa cả nắm. Ðũa mốc đòi chòi mâm son. Những câu tục ngữ đã "nâng cấp" cho đôi đũa lên hàng ẩn dụ tinh thần. Tôi vừa nhặt được trong cuốn tiểu thuyết Phố của nhà văn Chu Lai một từ Hà Nội: Bánh mì đũa cả.
Ðời sống tình cảm của người dân Việt trong ca dao cũng dính vào đôi đũa khá nhiều.
Tôi đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào
Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho vừa.
Ðũa lệch thì nản chết. Nó gợi lên một sự so le thảm thương. Lệch nhau cũng hình dung bằng đôi đũa, bằng nhau khít khao cũng đũa một đôi.
Ðôi ta như đũa trong kho
Không tề, không tiện, không so cũng bằng.
Ðũa mốc không được nằm trên mâm son. Trèo cao quá coi không được mắt.. Phải ngang hàng với nhau, xứng hợp với nhau, con mắt mới vừa.
Ðôi ta là bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trên mâm vàng
Bởi chưng thày mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau.
Vui cũng đũa, buồn cũng đũa, trách móc cũng đũa. Ðũa dính vào cái ăn nên đũa cũng nằm dềnh dang trong đầu. Cứ nghĩ tới đôi tới cặp, người Việt chúng ta nghĩ ngay đến đũa. Nghĩ tới nữa, bàn tay cầm đũa còn mách bảo tính tình, tư cách của người cầm đũa. Có những ngón tay khéo léo tháp vào đôi đũa như ngàn đời ăn ý với nhau đẹp thùy mị như một bức tranh, có những ngón tay xuôi nhịp nhàng theo đũa chân thật như canh với cà. Nhưng cũng có những ngón tay cứng cáp dằn vặt như đanh đá hành hạ đôi đũa, có những ngón tay vụng về e dè xoay xoay lưỡng lự như ngượng nghịu với đũa. Và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên đã vẽ ra đôi tay bối rối tập tành biết yêu như tập tành cầm đũa.
tình mới lớn, phải không em, rất mỏng?
cách tập tành nào cũng dễ hư hao
thuở đầu đời cầm đũa thấp cao
và nâng chén, dĩ nhiên, đổ vỡ
Chúng ta sinh ra hình như đã biết cầm đũa. Không biết thì... đói. Chúng ta cầm đũa tự nhiên, như thở. Nhưng, trong tiệm ăn, thấy tây đầm cầm đũa hẩy hẩy thức ăn lên miệng mới biết cầm đũa chẳng phải là chuyện dễ. Huống chi cầm đũa cho đẹp, cho quý phái, cho ra dòng ra giống. Nhưng cái lọng cọng của đôi đũa trong những bàn tay chuối mắn của tây đầm cộng với những đôi mắt xanh ánh lên nét hào hứng như đang tham dự vào một trò chơi thích thú thấy cũng có nét dễ thương. Cái dễ thương mà chúng ta cảm thấy một cách kẻ cả, như một đấu thủ thuộc hạng chuyên nghiệp nhìn xuống một đấu thủ mới tập tễnh ra lò. Nó như một thứ... tự hào dân tộc!
Thuở còn thơ bé, những ai từng được bà, được mẹ kể cho nghe câu truyện cổ tích "Cây tre trăm đốt" hẳn đều thương anh Khoai thật thà, chăm chỉ bị lão phú ông thách cưới bằng việc vào rừng tìm về cây tre trăm đốt. Cây tre ấy sẽ dùng để vót đũa cho đám cưới anh Khoai với con gái phú ông. Những đôi đũa cưới có thể đem lại niềm hạnh phúc mà cũng có thể làm mất đi giấc mơ đẹp nhất cuộc đời anh. Ông Bụt tốt bụng thương người hiền lành đã giúp anh Khoai biến giấc mơ đó thành sự thật với câu thần chú "khắc nhập, khắc xuất" diệu kỳ. Tôi vẫn tưởng tượng trong ngày đám cưới anh Khoai, những đôi đũa vót từ cây tre trăm đốt sẽ được đặt trang trọng trên mỗi mâm cơm, là minh chứng cho hạnh phúc của chàng trai nghèo khó ấy.
Không phải ngẫu nhiên mà đôi đũa thường được dân gian ví với hình ảnh đôi vợ chồng. Hai chiếc đũa luôn đi liền với nhau thì mới làm được điều có ích, cũng như hai vợ chồng khi đồng tâm cộng lực thì có thể cùng nhau tát cạn cả biển Ðông. Người con gái bị mẹ ép gả vào nơi không tương xứng, phải lấy người mình không yêu thương đã thốt lên lời than cay đắng:
"Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng"
Chuyện vợ chồng trăm năm quan trọng là thế, vậy mà có khi dân gian đánh giá không bằng chuyện một đôi đũa: "Vợ dại không hại bằng đũa vênh". Thế mới biết người dân mình cẩn trọng trong việc lựa chọn những chiếc đũa sao cho tương xứng với nhau. Rất nhiều những lời khuyên bổ ích khác được xây dựng bởi hình tượng đôi đũa như: "So bó đũa chọn cột cờ", "Vơ đũa cả nắm", "Ðũa mốc lại chòi mâm son"…
Bài học đầu tiên tôi được học khi ngồi trong mâm cơm là bài học về đôi đũa. Phải cầm đũa sao cho đúng, gắp được thức ăn mà không làm rơi vãi lung tung. Ngày đầu tiên được cầm đôi đũa là một ngày khá trọng đại với một đứa bé "thích làm người lớn" bởi chỉ người lớn mới đủ khéo léo để điều khiển đôi đũa thật nhanh nhẹn, nhịp nhàng. Bố tôi cầm đũa tay trái nên thường ngồi đầu nồi hoặc ngồi cách xa người bên cạnh để hai bên không chạm vào nhau. Những đôi đũa không chỉ có một loại mà bao gồm đũa để ăn cơm, đôi đũa dài cho mẹ nấu nướng, đôi đũa cả dùng để xới cơm. Ngày nay khi nhà nhà đều dùng nồi cơm điện có lẽ nhiều đứa trẻ lớn lên mà không biết về những đôi đũa cả đã từng tồn tại. Như khi xưa tôi được mẹ dặn rất kỹ rằng trước khi xới cơm thì nhúng đũa sơ qua vào nước cho khỏi dính. Xới cơm xong dùng chiếc nọ gạt cơm khỏi chiếc kia chứ không được gõ vào nhau thành tiếng bởi âm thanh ấy là dấu hiệu gọi ma đến nhà. Ðũa ăn cơm không được cắm thẳng lên trên bát bởi người ta chỉ làm thế trong đám ma. Ðứa trẻ con khi ấy là tôi nghe nói đến ma chay là khiếp vía, chẳng bao giờ dám không làm theo lời mẹ.
Rồi nhà tôi cũng chuyển sang dùng nồi cơm điện. Ngày gói đôi đũa cả bóng loáng nước tre, mòn vẹt cả một đầu cất vào góc sâu nhất trong chạn bát, tôi thấy trong mắt mẹ thoáng chút ưu tư. Ngày bố mẹ ra ở riêng trong gian tập thể bé xíu của cơ quan bố, hành trang hai người chỉ có một valy quần áo. Trong đó đựng luôn cả chục bát ăn cơm, chục đôi đũa con và một đôi đũa cả. Mười một đôi đũa ấy chính tay bà ngoại đã vót cho mẹ mang theo để mỗi bữa ăn còn lưu lại chút hình ảnh của quê hương. Hơn chục năm trời mẹ ngồi đầu nồi xới cơm cho cả gia đình rồi hướng dẫn các con cách xới cơm sao cho đúng mực, đôi đũa cả đầu tiên bà ngoại cho đã không còn. Nhưng đôi đũa nào cũng in dấu bàn tay mẹ, cũng là chứng nhân cho những bữa cơm gia đình đầm ấm, rộn vang tiếng chuyện trò, cười nói của các con. Cất đi một đôi đũa là gói lại trong lòng bao nhiêu kỷ niệm. Mẹ đã từng nhắc bố không bao giờ được dùng đũa cả để răn đe các con giống như nhiều gia đình khác vẫn làm. Khi con mới lớn lên, biết chơi chuyền, chơi chắt, con len lén về lấy trộm chục đũa của mẹ làm chuyền. Biết được mẹ không hề la mắng, chỉ dặn con rằng không được dùng đũa ăn cơm để nghịch bởi đôi đũa gắn với miếng ăn trong miệng, phải trân trọng giữ gìn. Vậy mà cũng chính bàn tay mẹ đã vót cho con đôi que đan đầu tiên trong đời bằng một đôi đũa mới bởi giữa thành phố thật khó tìm được đốt tre ưng ý, mà con thì sốt ruột, muốn học rồi phải được đan ngay bằng chính que đan của mình…
Nhớ những ngày hè về thăm ông nội, tôi vẫn thường ngồi xem ông vót đũa, bàn tay ông nhanh thoăn thoắt thật tài tình. Vừa vót đũa ông vừa kể chuyện ngày xửa ngày xưa mà không hề làm sai một chút. Bây giờ mỗi lần đi siêu thị, mắt hoa lên với hàng chục loại đũa không chỉ từ tre mà còn làm bằng nhựa, bằng i-nốc, bằng gỗ mun, gỗ kim giao, gỗ dừa…, không chỉ đũa Việt Nam mà còn nhập về từ các nước, tất cả đều làm bằng máy, thẳng đều tăm tắp , tôi lại nhớ về những đôi đũa mộc mạc của ông bà năm xưa. Ngày ông mất, bác cả tự tay vót đũa cắm trên bát cơm quả trứng đặt lên quan tài cho ông. Nhớ về ký ức đau buồn ấy, tôi vẫn thấy hiện lên chùm nan tre loăn xoăn của đôi đũa thấp thoáng trước tấm ảnh ông hiền hậu như đang muốn mỉm cười. Ðôi đũa gắn bó với con người khi còn sống và cũng theo con người đi về nơi an nghỉ cuối cùng.
Rồi mai đây trở thành người mẹ, trong bữa cơm đầu tiên con được dùng đôi đũa, tôi sẽ kể với con rằng: Con có biết xung quanh đôi đũa là bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu nét đặc trưng của văn hoá Việt Nam ta?...
Emtiti... bài thơ này mình xin post vào... chắc emtiti hiểu ý vì sao hén...
BÀI THƠ ÐÔI ÐŨA
Ðọc bài thơ em viết cho anh
Kể chi li em nói về đôi dép
Là vật dụng song hành thật đẹp
Anh liên tưỏng về: "Ðôi đũa" chẳng kém chi.
Ðôi đũa kia trông có vẻ nhu mì
Nhưng quấn quýt bên nhau, sao mà chặt thế
Dao, rĩa, môi, thìa cũng đành vị nể
Thoăn thoắt, nhịp nhàng, không thể rời mâm.
Sánh gắp bên nhau đôi lúc cũng âm thầm
Ðể hưởng thụ nhâm nhi cùng chén rượu
Rơi một chiếc coi như là bất hiếu
Số phận chiếc còn đành lặng lẽ nằm im.
Tiệc muốn ngon lại phải kiếm tìm
Một chiếc khác để giúp mình gắp tiếp
Hai chiếc cạnh nhau, luôn là thông điệp
Gánh vác hết mình cho đến lúc tàn mâm.
Với như ta, đôi lúc cũng còn nhầm
Chọn chồng thấp, vợ cao là khập khễnh
Khi đôi đũa kia, không bằng mà lệch
Chắc chắn đau lòng người dự tiệc khi ăn.
Ðôi đũa vô tri: tre, gỗ khô cằn
Nhưng khăng khít bên nhau không ganh tị
Hai chiếc đũa cùng nhau chung một ý
Bữa ăn nào cũng phải có mặt cả đôi.
Cùng với nhau theo ta trọn cuộc đời
Dẫu bằng: gỗ, tre, ngà,...hay bằng nhựa
Nhưng vẫn bên nhau cùng giữ gìn lời hứa
Gắn bó cả đời suốt bữa tiệc cùng mâm.
Hai chiếc đũa bên nhau có vẻ âm thầm
Sẽ ngừng gắp khi mất đi một chiếc
Chỉ còn một là mất đi bữa tiệc
"Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia".
Thân mến,
VienDzu Suu Tam
Thưa dần những bụi tre làng rì rào trong nắng gió, theo đó thói quen dùng đũa cả xới cơm cũng không còn nhiều nếu không muốn nói là đang mất hẳn trong mỗi gia đình Việt, dù ở thành thị hay nông thôn.
Người Việt thường có thói quen tự tay “sáng chế” ra các vật dụng đơn giản trong gia đình bằng những nguyên liệu quen thuộc. Cũng giống như cái cuốc, xẻng… có cán được tạo nên nhờ gỗ của những thân cây quanh vườn, đôi đũa cả - vật dụng không thể thiếu trong bữa cơm gia đình người Việt được vót từ thân tre mộc mạc.
Thời nay, con người được hưởng nền công nghệ tiên tiến với sự ra đời ồ ạt của các vật dụng hiện đại và vô cùng tiện ích trong gia đình. Những vật dụng đó làm giảm tải đi phần nào khó khăn mà con người gặp phải do quỹ thời gian chật hẹp. Và, nét đẹp trong bữa cơm hàng ngày của người dân Việt cũng vì thế mà không còn giữ nguyên vẹn. Bây giờ, người ta nấu nồi cơm điện nên không còn dùng đến đôi đũa cả để xới cơm nữa. Thay vào đó, người ta dùng môi nhựa để. Cơm nấu nồi điện, bốc khói nghi ngút và kêu một tiếng “tách” để báo chín. Chỉ chờ có thế, người ta lấy luôn ra ăn. Có nhà lấy môi đánh tơi cơm rồi múc vào bát cho mọi người, nhà thì không đánh tơi mà xấn luôn một khối, vừa môi cơm và xúc vào bát. Thế nên những người có tuổi, từng một thời gắn liền với đôi đũa cả, thường nuối tiếc về hình ảnh bếp than hồng, nồi gang nấu cơm dẻo thơm cùng với chiếc đũa cả thô mộc.
Tre được chọn làm đũa cả thường phải là tre già, nếu làm bằng tre non thì đũa cả sẽ không để được lâu và dễ bị mọt. Những người phụ nữ khéo tay sẽ vót được đôi đũa cả đều tăm tắp, bằng nhau về kích thước và trông thật trơn tru.
Người ta dùng đũa cả để đảo khi cơm sôi, để ghế cơm và để xới cơm nữa… Vật dụng quen thuộc, nhỏ bé, mộc mạc là thế nhưng chứa đựng trong nó không ít những triết lí sâu sắc về lễ nghi gia đình, về nếp nhà của mỗi người. Chả thế mà quan sát cách xới cơm cho các thành viên trong gia đình của các bà, các chị là thấy ngay được nề nếp, trật tự, sự lễ phép của con cái đối với bố me, ông bà, của vợ đối với chồng…
Mùi mộc của tre quyện trong hương lúa mới thấy nao cả lòng. Chợt ước ao được một lần trở lại bên mâm cơm ngày xa xưa, cả nhà quây quần thật ấm cúng, giơ đôi bàn tay lũn chũn đón lấy bát cơm được xới từ cây đũa cả mẹ vót trong chiều đông. Cũng giống chiều đông ấy, nhưng hôm nay có bóng chiều hanh vàng hắt chút nắng nhẹ đầu Xuân trên những khóm hoa – như một sự tiếc nuối của thời gian về những gì đã qua đi…
Theo Món ngon Hà Nội