Barabbas
Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Tin! Làm sao tin được
người mà chính gã đã thấy là bị đóng đinh trên một cây thập tự? Người mà bây
giờ thì thân xác đã chết lâu rồi, không sống lại, và chính gã đã biết
chắc? Sự tin tưởng như thế chỉ là hoàn toàn tưởng tượng. Không có ai từ
chết sống lại, kể cả ông Thầy mà họ sùng bái hay bất cứ ai khác.
Hơn nữa, chính gã,
Ba-ra-ba, không có trách nhiệm gì hết trong việc chọn lựa của họ. Họ có thể
chọn tên tù nào họ muốn. Và sự may rủi đã xảy ra như vậy rồi.
Con Thượng Đế! Người
ấy không phải là Con Thượng Đế. Nếu phải, người ấy đã không bị đóng đinh, trừ
khi người ấy muốn như vậy. Có lẽ người ấy đã muốn như vậy! Nếu người ấy đã muốn
chịu đau đớn thì thật là kỳ dị và đáng sợ.
Nếu người ấy thật là
Con Thượng Đế, thì muốn thoát khỏi thọ hình, không có gì khó khăn cả. Người ấy
đã chịu đau đớn và chết cách thảm khốc nhất, mà không muốn thoát thân. Rồi việc
đó đã xảy ra, người ấy đã được như ý và không được phóng thích. Người ấy đã làm
cho Baraba là gã, được tha ra hay vì chính mình. Người ấy đã truyền lệnh: “Hãy
trả tự do cho Baraba và đóng đinh ta đi.” Việc đó rất hiển nhiên, dầu người
không phải là Con Thượng Đế…
Người ấy đã dùng uy
quyền của mình một cách đơn giản hơn hết. Nghĩa là người ấy đã sử dụng nó bằng
cách không dùng đến nó. Người ấy đã để cho bọn kia quyết định theo ý chúng mà
không can thiệp vào, tuy nhiên, ý muốn của người ấy đã thắng hơn, tức là người
ấy đã bị đóng đinh thay cho Ba-ra-ba.
Các môn đệ của người
ấy bảo rằng người ấy đã chết vì họ. Có thể lắm, nhưng thật sự thì người ấy đã
chết vì gã, Ba-ra-ba, và không có ai chối cải được điều đó! Chính gã, Ba-ra-ba,
thật là gần với người đó hơn bất cứ ai khác, gã chịu ơn ông “Thầy” đó một cách
khác hẳn. Mặc dầu gã bị họ xua đuổi! Người ta có thể tin rằng chính gã mới là
người được chọn – gã khỏi phải chịu đau đớn; gã đã thoát được sự hành hạ! Gã là
kẻ thực sự được tuyển chọn, kẻ đã được thả ra thay vì Con Thượng Đế – Bởi vì
Con Thượng Đế đã muốn, đã ra lệnh như vậy! Thế mà bọn kia không ngờ chi cả!
Nhưng gã thì rất ít
quan tâm đến các nhóm thân hữu, các giáo đoàn, đến câu khẩu hiệu: “Các con hãy
yêu mến lẫn nhau” của họ. Gã là chính gã. Và trong mối liên hệ với người bị
đóng đinh, thì gã cũng vẫn chính là gã như thường. Gã không phải là nô lệ như
họ! Không phải như những kẻ đã thở dài dưới chân “Thầy” và sung bái “Thầy.”
Làm sao người ta lại muốn
khổ. Nếu không phải là cần thiết, nếu không phải là bắt buộc. Thật không hiểu
nổi. Chỉ một ý nghĩ đó cũng khiến cho ta ghê tởm. Khi nghĩ đến điều đó gã thấy
lại tấm thân gầy gò, thảm hại kia, và đôi tay buông thỏng và cái miệng khô khan
đến nổi phải khó khăn lắm mới xin được nước uống. Không, gã không thấy được một
người nào đã đi tìm đau khổ theo cách đó, một người có thể nói là đã tự đóng
đinh mình vào thập tự giá! Gã không thấy được người ấy! Nhưng bọn người kia lại
sùng bái người bị đóng đinh, tôn thờ sự đau khổ, cái chết nhục nhã của người ấy
mà họ không thấy khốn nạn. Họ đã tôn thờ chính sự chết. Thật là não lòng, điều
đó khiến cho Ba-ra-ba lợm giọng. Sự ghê tởm của gã lan đến họ, đến giáo lý của
họ và người vốn là đối tượng của đức tin họ.
Không, gã không yêu
được sự chết tí nào. Có lẽ vì vậy mà gã khỏi phải chết cũng nên? Vì vậy mà gã
được miễn trừ? Nếu thật kẻ bị đóng đinh đó là Con Thượng Đế, chắc người ấy biết
hết mọi sự, cũng biết rõ rằng Ba-ra-ba không muốn khổ, cũng không muốn chết.
Cho nên vì thế mà người ấy đã chiếm chỗ của gã. Rồi Ba-ra-ba chỉ cần đi theo
người ấy đến Gô-gô-tha để xem người ta đóng đinh người ấy. Đó là điều duy nhất
mà gã bị đòi hỏi, vì chỉ chừng đó mà gã còn cảm thấy khó khăn thay! Thế mới
biết là gã không ưa sự chết và tất cả những gì liên hệ với nó đến mức độ nào.
Phải, chính gã mới
thật là người mà Con Thượng Đế đã chết thay cho! Chính là vì gã chớ không phải
vì một ai khác hơn. Chính vì thế mà người ấy đã nói: “Hãy trả tự do cho người
nầy và đóng đinh ta đi.”
Đó là điều Ba-ra-ba
suy nghĩ khi gã từ giã các môn đệ, sau khi thử tìm cách trở thành một người
trong đám họ. Gã rảo bước trên phố Thợ Gốm sau khi vừa ra khỏi một xưởng thợ,
nơi những kẻ sùng đạo đã ra mặt tỏ ý là không muốn nhận gã nhập bọn với mình,
và quyết định là nếu không có gì thay đổi thì sẽ chẳng bao giờ đi tìm họ nữa.
Tuy nhiên, ngày hôm
sau gã cũng trở lại. Họ đều hỏi gã về điểm mà gã chưa hiểu liên hệ đến đức tin
của họ, và như thế, chứng minh rằng họ đã ăn năn vì không tiếp đón gã tử tế, vì
đã không sốt sắng chỉ dạy và soi sáng cho một người khát kao muốn hiểu biết như
gã muốn gì? Gã chưa hiểu điểm nào?
Thoạt đầu, Ba-ra-ba
muốn nhún vai và trả lời rằng gã không hiểu gì hết, nhưng dầu sao thì chuyện đó
có ăn nhập gì với gã. Nhưng gã đổi ý và đưa ra việc gã không thể nào quan niệm
được sự sống lại như một thí dụ về những điều gã khó hiểu. Gã không tin là có
người sống lại từ kẻ chết được.
Những người thợ gốm
ngước lên khỏi các bàn xoay của họ để nhìn gã rồi lại nhìn nhau. Sau khi thì
thầm với nhau, người lớn tuổi nhất hỏi gã có muốn gặp một người mà Thầy họ đã
khiến sống lại không. Nếu muốn, họ sẽ thu xếp cho gã gặp người đó, nhưng việc
ấy chỉ có thể thực hiện vào buổi chiều tối, khi đã hết giờ làm việc, vì người
ấy ở hơi xa ngoài thành phố Giê-ru-sa-lem. Ba-ra-ba cảm thấy sợ. Gã không thể
nào ngờ được là có chuyện như vậy. Gã tưởng là họ sẽ lý luận về vấn đề ấy,
trình bày quan điểm của họ, chớ không thể nào cố ý dồn gã vào ngõ bí bằng một
bằng chứng hiển nhiên như thế. Lẽ dĩ nhiên là gã tin chắc rằng mọi điều đó chỉ
là tưởng tượng, mê tín dị đoan, chớ thật ra thì người mà họ nói đã không
chết thật. Dầu vậy, gã vẫn thấy sợ. Gã không muốn gặp người ấy chút nào. Nhưng
thật là khó thú nhận như vậy. Phải giả bộ như mình rất cám ơn họ vì một cơ hội
như thế, vì các môn đệ của người ấy đã cống hiến cho gã một dịp tốt để chứng
kiến quyền lực của Chúa và là Thầy họ.
Trong lúc chờ đến giờ
hẹn, gã đi lang thang ngoài đường phố với sự rạo rực cứ càng gia tăng. Khi trời
sắp tối, lúc gã trở lại xưởng thợ, có một thanh niên đưa gã đến tận rặng núi
Ô-li-ve, ở xa ngoài các cửa thành.
Người gã sắp gặp cư
ngụ tại một làng nhỏ trên sườn núi. Ngay lúc chàng thợ gốm trẻ tuổi vén mạnh
chiếc chiếu rơm che kín cánh cửa ra vào, họ thấy người ấy đang ngồi để tay lên
bàn trước mặt mình, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước. Khi nghe họ chào
thật lớn tiếng, người ấy mới biết là có người đến. Bấy giờ người ấy mới chậm
rãi quay đầu về phía cửa và đáp lại lời chào của họ bằng một giọng kỳ dị thốt
không ra lời. Khi chàng thanh niên chuyển lời chào thăm của các anh ở phố thợ
gốm và cho biết mục đích cuộc thăm viếng của mình, người ấy khoát tay ra dấu
mời hai người khách của mình ngồi xuống bên chiếc bàn mình đang ngồi.
Ba-ra-ba ngồi đối diện
với người ấy và không thể nào tránh được việc phải quan sát được gương mặt của
người ấy, một gương mặt màu hơi vàng và có vẻ cứng như bằng xương bọc ngoài một
lớp da hoàn toàn bị khô cứng. Ba-ra-ba không hề nghĩ rằng diện mạo một người
lại có thể là như vậy. Gã chư bao giờ thấy một cái gì đượm vẻ hoang vu đến thế.
Nó khiến ta nhớ lại cảnh hoang vu của bãi sa mạc.
Thánh Kinh Báo
Tháng 1-2/1970
(Còn tiếp)