Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Sau câu hỏi của gã thợ
gốm, người ấy giải thích rằng mình thật đã chết, nhưng ông thầy giảng đạo người
Ga-li-lê tức là Thầy họ, đã khiến mình sống lại. mặc dầu đã nằm trong mộ bốn
ngày rồi, sức lực thể xác và tinh thần của mình vẫn như trước; không có gì thay
đổi về phương diện đó. Trong việc ấy, Thầy họ đã biểu dương năng lực và quyền
uy của mình, đã chứng tỏ rằng mình là Con Thượng Đế. Người ấy nói chậm rãi,
giọng đều đều, đôi mắt lờ đờ và phai hết mầu sắc cứ nhìn chằm chằm vào
Ba-ra-ba.
Khi người ấy thuật hết
câu chuyện, họ tiếp tục bàn thêm trong chốc lát về Thầy họ và những việc lớn
lao người ấy đã thực hiện. Ba-ra-ba không chen vào câu chuyện. Rồi gã thợ gốm
đứng lên từ giã họ để đi thăm cha mẹ gã cũng ngụ trong làng.
Ba-ra-ba không muốn ở
lại một mình với người ấy chút nào. Nhưng gã không thể nào từ giã suông như
vậy, cũng không tìm được một lý do nào để kiếu mà đi. Người kia vẫn nhìn
chăm chăm vào gã bằng đôi mắt dị kỳ, mất cả thần sắc của mình, một cái nhìn
không thể diễn tả được cái gì cả, nhứt là không có gì khiến cho Ba-ra-ba phải
chú ý, dầu vậy, nó vẫn lôi cuốn gã một cách không thể nào giải nghĩa được,
Ba-ra-ba muốn ra đi, muốn thoát khỏi đó và chạy trốn, nhưng không thể nào làm
như vậy được.
Người được sống lại im
lặng nhìn gã giây lâu rồi hỏi gã có tin Thầy họ là Con Thượng Đế không.
Sau khi hơi phân vân một chút, Ba-ra-ba đáp là không, vì đối với gã thật là khó
nói dối được với người ngồi trước mặt mình đã nói thật hay nói dối. Người ấy
không tỏ ra câu chấp gì hết, mà chỉ gật đầu và nói:
- Phải, có nhiều người
khác cũng không tin. Mẹ của người ấy vừa đến thăm tôi hôm qua cũng không tin
như vậy. Nhưng riêng tôi, thì người ấy đã khiến tôi từ kẻ chết sống lại để làm
một nhân chứng.
Ba-ra-ba bảo rằng
trong trường hợp đó, người ta có thể hiểu được việc người ấy tin vào Thầy mình.
Và còn phải vĩnh viễn tỏ ra lòng biết ơn đối với phép lạ người ấy đã thực hiện
cho mình nữa. Người ấy đáp là mình thật có lòng biết ơn đó: mỗi ngày người ấy
đều tạ ơn Thầy mình, người đã ban lại cho mình sự sống, đã khiến mình thoát
khỏi xứ của những kẻ chết.
Xứ của những kẻ chết
à? Ba-ra-ba kêu lớn và tự cảm thấy giọng nói của mình run lên. Xứ của những kẻ
chết? Nó ra sao? Anh đã đến đó rồi xin nói cho tôi biết nó ra làm sao?
- Nó ra làm sao à?
Người ấy lặp lại với một cái nhìn tỏ ý dò hỏi. Rõ ràng là người ấy không hiểu
Ba-ra-ba muốn nói gì.
- Phải! cái chỗ mà anh
đã đến đó, nó ra làm sao?
- Tôi có đi đâu đâu?
Người ấy đáp mà dường như không cảm thấy vẻ nóng nảy của người khách đến thăm
mình. Tôi chỉ chết. Và chết là không có gì cả.
- Không có gì cả?
- Phải. Vậy chớ anh
muốn nó ra sao?
Ba-ra-ba nhìn chăm
chăm người ấy.
- Anh nghĩ là tôi có
thể kể cho anh nghe một câu chuyện gì đó trong xứ của sự chết chớ gì? Tôi không
thể làm điều đó. Xứ ấy có thật nhưng nó không là gì cả. Nhưng người nào đã đi
đến đó rồi, thì tất cả những cái khác cũng là không có gì cả. Anh hỏi tôi những
câu như thế thật là lạ. Tại sao anh lại hỏi như vậy! Thường thì có ai hỏi như
vậy đâu?
Rồi người ấy kể lại
rằng các anh em ở Giê-ru-sa-lem vẫn đưa người đến cho mình thuyết phục để họ
tin đạo và nhiều người đã chịu tin. Khi phục vụ Thầy mình như thế, người ấy sẽ
trả được một phần của món nợ lớn lao mình đã mang nặng đối với Thầy. Hầu như
mỗi ngày chàng thanh niên làm thợ gốm kia, hay người khác vẫn đưa một người đến
để người ấy xác chứng sự sống lại của mình. Nhưng người ấy chưa bao giờ nói đến
xứ của sự chết. Đây là lần thứ nhất có người hỏi ông ta về vấn đề đó.
Màn đêm đã buông
xuống; người ấy đứng lên, đi thắp chiếc đèn dầu treo trên cái trần nhà thấp.
Người ấy đi lấy bánh và muối để lên bàn chính giữa họ, bẻ bánh ra và trao cho
Ba-ra-ba một miếng. Người ấy chấm mẫu bánh của mình vào muối, rồi Ba-ra-ba cùng
làm như vậy. Ba-ra-ba phải tuân lệnh, dầu gã cảm thấy tay mình run lên. Họ yên
lặng dùng bữa với nhau dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu.
Ba-ra-ba không thấy
khó chịu nếu nhập vào các giáo đoàn của người này, là người không làm khó dễ
như bè bạn của ông ta tại Giê-ru-sa-lem và không tạo ra một sự cách biệt quá
lớn lao giữa người này với kẻ khác. Nhưng khi gã ăn đến mẫu bánh mà người kia
đã dùng những ngón tay khô đưa cho mình, gã nghĩ là mình có ngửi thấy mùi xác
chết trong miệng.
Sự kiện được ăn chung
với người ấy có ý nghĩa gì đây? Bữa ăn đơn sơ người có tầm quan trọng bí ẩn đến
mức độ nào đây?
Khi họ đã ăn xong, chủ
nhà đưa gã ra cửa và chúc gã thượng lộ bình an. Ba-ra-ba nói lầm bầm trong
miệng mấy tiếng rồi bước nhanh vào đêm tối; gã rảo bước tiến về hướng thành phố
theo con đường trên triền núi, đầu óc rối bời những ý tưởng lộn xộn.
Đêm đó, mụ to béo rất
kinh ngạc khi hai người gần gũi nhau. Mụ ta không hiểu ra sao cả, nhưng dường
như gã thực sự đang muốn bám víu vào một cái gì. Và chính là mụ ta mới có thể
đem đến cho gã điều gã ao ước. Nằm bên cạnh gã, mụ mơ thấy rằng mình hãy còn
trẻ và có một người yêu …
Hôm sau gã tránh vùng
phố thấp và ngỏ thợ gốm, nhưng có một người tình cờ gặp gã dưới các vòm của
Sa-lô-môn và hỏi gã buổi chiều hôm qua mọi việc đã xảy ra làm sao, gã đã
tìm được sự thật người ta đã nói với gã chưa. Gã bảo là không còn nghi ngờ gì
về việc người mà gã đến gặp đó đã từ kẻ chết sống lại, nhưng gã thấy rằng Thầy
họ đã gọi người ấy sống lại là một điều lầm lớn. Người thợ gốm bất mãn đến hầu
như giận tái cả người khi nghe những lời xúc phạm đến Chúa mình đó. Lúc
ấy, Ba-ra-ba chỉ cần quay lưng lại, để cho người ấy đi qua.
Câu chuyện chẳng những
được mọi người hay biết trong phố thợ gốm, mà còn lang cả sang các phố bán dầu,
thợ thuộc da, thợ dệt và nhiều phố khác. Cho nên ít lâu sau khi Ba-ra-ba trở
lại phía đó, gã nhận thấy rằng những người tín đồ vẫn hay tán chuyện với gã
không còn như trước nữa. Họ trở thành ít nói và không ngớt nhìn trộm gã, tỏ ý
nghi ngờ.
Giữa Ba-ra-ba và các
tín đồ chẳng bao giờ có sự thân mật, nhưng bây giờ thì họ công khai khinh miệt
gã. Thật vậy, một ông lão nhỏ thó, gầy còm mà chính gã cũng không quen biết đã
xông ngay vào gã và hỏi gã tại sao cứ lui tới giữa vòng họ, tới đó để làm gì,
có phải gã là tay sai của người quản lý Đền Thờ hay thủ hạ của thầy tế lễ
thượng phẩm hay có lẽ là của người phái Sa-đu-sê chăng? Ba-ra-ba nhìn lão già
nhỏ thó, đầu sói đang đỏ mặt vì giận dữ đó mà không thèm trả lời. Gã chưa hề
biết lão ta trước đó và cũng không biết lão là ai, nhưng nhận ngay ra rằng lão
ta là thợ nhuộm vì có những sợi len màu xanh và đỏ làn hoa tai.
Ba-ra-ba biết mình đã
chạm vào lòng tự ái của các môn đệ, và thái độ của họ đối với gã đã thay đổi
hẳn rồi. Khắp nơi gã đều bắt gặp những cái nhìn lạnh lùng, hằn học; một
số người lại nhìn chằm chằm vào gã như muốn đâm thủng tim gã ngay. Nhưng gã cố
làm như mình không để ý gì hết.
Rồi một ngày kia, câu
chuyện bí mật đã nổ bùng. Tin này được truyền đi như một tràng thuốc súng khắp
các phố có tín đồ ở. Đột nhiên, không còn một ai là không biết đến gã. Chính là
hắn! Kẻ đã được phóng thích thay vì Thầy, là Đấng Cứu Thế! là Con Thượng Đế!
Chính hắn là Ba-ra-ba! Hắn là Ba-ra-ba, kẻ đã được phóng thích.
Những cái nhìn hằn học
xua đuổi gã, hận thù cháy bừng lên trong những cái nhìn của họ. Sự bất mãn vẫn
chưa nguôi khi gã đã biến mất khỏi tầm mắt họ để chẳng bao giờ tái hiện nữa.
Ba-ra-ba, kẻ đã được
phóng thích! Chính hắn là Ba-ra-ba, kẻ đã được phóng thích!
Thánh Kinh Báo
Tháng 3-4/1970
(Còn tiếp)