Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Wednesday, November 6, 2013

CÔNG NGUYÊN LÀ GÌ?




Vào tết Dương lịch năm 1937, khi nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đang bị thực dân Pháp quản thúc tại Huế, có người đem tặng cho ông tập lịch năm mới.  Để giải toả sự bực bội về sự đô hộ của đế quốc Pháp trên Đất Việt chúng ta, Cụ Phan viết hai câu thơ châm chọc:

   “Tháng một đứng trên đầu tháng chạp,
   Ngày Nam nằm dưới đít ngày Tây”.


Thật vậy hai câu thơ nầy nói lên hai loại lịch: lịch của người phương Tây—Dương lịch và lịch của người Á Đông—Âm lịch. Trong bất cứ tập lịch nào trên đất Việt chúng ta, Dương lịch thông dụng hơn nên in nằm trên, Âm lịch in nằm dưới. Trên thế giới còn có một số loại lịch có tính phổ thông giới hạn như lịch của người da đỏ Maya, lịch Hồi giáo và Phật lịch.

Người ta lập ra lịch là do căn cứ vào sự luân chuyển của mặt trời hay mặt trăng. Số ngày tháng trong mỗi loại lịch có nhiều điểm dị đồng với nhau; có ưu điểm mà cũng không ít khuyết điểm, nhưng điều tôi muốn nói là mỗi loại lịch phải có sự khởi đầu từ cột mốc lịch sử nào đó trong quá khứ. Căn cứ vào cột mốc đó người ta mới ghi lại các niên hiệu về các biến cố lịch sử theo sự chuyển dịch của thời gian để quần chúng am hiểu và ghi nhớ đến mãi mãi.

     Tên năm của Âm lịch trong năm nay là Quý Tỵ. Theo lịch pháp của Hội Giáp tý thì năm thứ 60 trước đây và năm thứ 60 sau đây cũng đều có tên là Quý Tỵ. Sự trùng lặp các niên hiệu như vậy không làm rõ các niên đại quan trọng trong lịch sử. Là người Việt lớn tuổi, ai cũng biết cái Tết kinh hoàng năm Mậu Thân, nhưng niên hiệu Mậu Thân đó phải đi kèm với con số 1968 của Dương lịch, thì chúng ta mới hiểu rõ.

Về Phật lịch, theo tài liệu Phật học phổ thông khóa thứ nhất, bài thứ 2 nói về lược sử Phật Thích Ca Mâu Ni, do cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa biên soạn, thì “Phật lịch là loại lịch được sử dụng tại Đông Nam Á đại lục, tại các quốc gia như Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma  Sri Lanka.

 

Nói Phật đản là người ta tính thời gian từ lúc Đức Phật ra đời cho đến nay (2013) là 2637 năm. Về Phật lịch, thì người ta đem con số 624 (trước Tây lịch) trừ đi 80 năm Phật tại thế, thành ra còn lại là 544 năm, rồi đem con số 544 cộng với 2013 thành ra là 2557. (624 – 80 = 544 + 2013 = 2557). Như vậy, tính đến năm nay là 2013, thì Phật lịch là 2557 năm, còn Phật đản là 2637 năm.

   Như vậy Phật lịch lấy năm Đức Phật viên tịch làm năm thứ nhất, và năm nay là 2013 theo Dương lịch, thì Phật lịch là năm 2557.

 

   Xưa nay có ai lấy năm của Phật lịch để làm ngày ký kết các hiệp ước, hoà ước bang giao quốc tế không? Có lẽ là không. Cho nên Phật Lịch còn hữu dụng giữa các nước Phật giáo như Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma  Sri Lanka..v.v…, nhưng nó không hữu dụng trong trường quốc tế. Thậm chí Giáo hội Phật Giáo Việt Nam còn sử dụng niên đại của Dương lịch đi kèm theo con số năm của Phật lịch để quần chúng người lương mới hiểu nổi. Vì tôi có thấy biểu ngữ với những dòng chữ sau đây: “Đại lễ Phật Đản PL 2557 - DL 2013  trong lễ Phật đản vừa qua. Đó là ngày 15-4 âm lịch (nhằm ngày 24-5-2013 nầy).

 

  Thế thì, theo quan điểm của tôi, Duơng lịch, tuy bị vu khống là lịch của đế quốc thực dân, nhưng lại là lịch thông dụng quốc tế, được trên 200 quốc gia thế giới công nhận và sử dụng.

   Theo cổ sử người La-mã (Italia) thì Romulus sáng lập thủ đô Roma vào năm 753 trước Công nguyên, đồng thời ông sáng chế ra bộ lịch La mã, dựa trên hệ thống Âm lịch do người Hi-lạp sử dụng. Có học giả cho rằng năm thành lập thành phố Roma là cột mốc để tính thời gian trong lịch sử của đế quốc La mã.

 

   Đến năm 46 trước Công nguyên, Jules Caesar ra lệnh sửa đổi lại lịch La mã cổ  đại thành ra lịch Julien, là theo tên của ông. Khi kỷ nguyên Cơ Đốc được đề xuất và áp dụng thì lịch Julien đã lưu hành được 577 năm rồi, nên các sự việc kỷ nguyên đó vẫn tiếp tục tính theo lịch nầy. Đến cuối thế kỷ 16, giáo hoàng Gregoire XII triệu tập một uỷ ban gồm nhiều nhà thông thái để tiến hành cải cách lịch Julien, vì lịch nầy có một số chỗ thiếu chính xác. Lịch cải cách ra đời năm 1582, có tên là lịch Gregorien, theo tên giáo hoàng.

 

   Theo lịch Gregorien, một năm có 365 ngày, chia làm 12 tháng, hay là 52 tuần lễ. Các tháng 1,3,5,7,8,10,12 có 31 ngày. Các tháng 4,6,9,11 có 30 ngày. Tháng 2 có 28 ngày. Cứ 4 năm thêm một ngày nhuận vào tháng 2, nên trong năm nhuận, tháng 2 có 29 ngày. Nó được cả thế giới công nhận và sử dụng đến ngày nay. Người Trung quốc gọi nó là “Công lịch” (lịch công cộng). Người khác gọi là lịch Cơ Đốc.

    Thưa các bạn,

Chúng ta đã thấy hai cột mốc để tính thời gian, để ghi lại các niên hiệu lịch sử thế giới:-- cột mốc của Phật lịch có ảnh hưởng nhỏ ở Châu Á, chỉ có cột mốc La-mã có ảnh hưởng toàn cầu, vì qua sự bành trướng của chế độ thực dân, người Châu Âu đã áp đặt Công lịch và các niên hiệu theo cách tính toán của họ cho cả trái đất. Nên người Việt chúng ta cũng như cụ Phan Bội Châu gọi Công lịch Gregorien là Tây lịch.

   Nhưng có một sự kiện trọng đại đã chuyển đổi cột mốc tính thời gian quốc tế của người La-mã sang cột mốc Chúa Jêsus, mà người ta thường gọi là Công Nguyên. Công nguyên là gì? Bách khoa tự điển Việt nam có ghi hai định nghĩa:--“Công nguyên là cột mốc để tính thời gian theo Công lịch”.—“Công nguyên là năm gốc của hệ tính thời gian đang thông dụng trên thế giới”.

 

   Việc đề xuất đổi cột mốc tính thời gian như vậy do Dionysius Exiguus, một vị tu sĩ Giáo hội đề nghị vào năm 532 Công nguyên. Việc nầy được giáo hội thời đó chấp nhận và áp dụng ngay. Người Âu châu thì gọi là Tây Lịch kỷ nguyên, còn người Trung Hoa thì gọi là Công Lịch Kỷ Nguyên, gọi tắt là “Công nguyên”.
   Công nguyên có hai đặc sắc:- 1/ lấy năm Chúa Jêsus ra đời làm mốc, nghĩa là làm năm đầu tiên để tính và ghi lại những sự kiện lịch sử trước  và sau đó. 2/ Lấy lịch Gregorien để tính năm, tính tháng, tính tuần và tính ngày.
    Không có năm 0 trong các lịch này: năm 1 TCN được theo sau bằng năm 1 CN. Các nhà viết sử áp dụng thông lệ này vì nó được dùng lần đầu bởi tu sĩ Bede trong tác phẩm Historia Ecclesiastica Gentis  Anglorum (Lịch sử giáo hội của người Anh, 731). Ông không dùng số 0, mặc dù ông đã biết số 0 vào lúc đó, vì việc đếm số cho năm bắt đầu từ 1 chứ không phải từ 0. Năm 0 trong lịch thiên văn là năm 1 TCN; các năm trước 0 được đánh số âm, như −1 = 2 TCN.

   Tiếp theo gương của tu sĩ Bede đó, tất cả các sự kiện của cả lịch sử loài người trên mặt đất đều được điều chỉnh niên hiệu lại  theo cột mốc Công nguyên nầy. Các sự kiện trước Công nguyên, thí dụ như Alexandre đại đế của Hi lạp chết năm 323 trước Công nguyên, thì họ ghi 323 B.C.. Các sự kiện sau Công nguyên như ngày chết của vua Napoléon I, có thể là năm1821, thì lịch sử ghi là năm A.D 1821, hoặc 1821 A.D.. Trong các văn bản Anh văn, chúng ta thấy hai ký hiệu B.C và A.D xuất hiện phía sau các niên hiệu. Bản Việt văn dịch là T.C (Trước Chúa) và S.C (Sau Chúa) Ký hiệu B.C có nghĩa là: Before Christ và A.D có nghĩa là Anno Domini (năm của Chúa, theo tiếng Latin). Toàn bộ thời gian từ cột mốc Công nguyên đến thế kỷ 21 nầy trở đi, đều được gọi chung là kỷ nguyên Cơ Đốc ( The Christian era). Nhưng hầu hết các học giả Kinh Thánh hiện nay cho rằng Dionysius đã tính sai, đã chuyển đổi sai trật, và rằng trên thực tế Chúa Giêsu sinh trong khoảng từ năm 8 TCN tới năm 4 TCN. Dữ kiện muộn nhất liên quan đến sự giáng sinh của Chúa Jêsus là cái chết của Herod Đại Đế vào năm 4 TCN. Theo Kinh Thánh đó là năm Chúa Jêsus sinh ra. Cho nên Cơ Đốc giáo tin Chúa Jêsus có lẽ giáng sinh vào năm 4 T.C.
  Hiện nay còn có chữ viết tắt CE (Common Era) thay thế cho AD và được đặt sau số năm, ví dụ 128 CE, khi người dùng không muốn nó mang sắc thái tôn giáo liên quan đến Chúa Jêsus. Hiếm hơn còn có E.V., viết tắt của Era Vulgaris trong tiếng Latin. Dù dùng chữ “Công nguyên” theo cách nào đi nữa, nhân loại không thể chối bỏ sự thật là sự ra đời của Đấng Cơ Đốc đã ảnh huởng và làm chuyển đổi lịch sử loài người, mà có thể họ không muốn có sự chuyển đổi đó.
Công Nguyên là cột mốc quan hệ đem lại sự chuyển đổi thời đại, đã được sử dụng chung với Dương lịch suốt gần 15 thế kỷ qua, còn các lịch khác như Phật lịch. Âm lịch chỉ được sử dụng hạn chế trong lãnh vục riêng của họ mà thôi.
 Trước khi dứt lời tôi xin được phép hỏi các bạn:
& Tại sao nhân loại chọn năm sanh của Chúa Jêsus làm Công nguyên, làm cột mốc để tính thời gian của cả lịch sử loài người chúng ta?.
& Chúa Jêsus là Ai mà sự có mặt của Ngài đã có ảnh hưởng chuyển đổi cả lịch sử loài người đến mức độ lớn lao như vậy?
& Ngài là Ai mà mọi biến cố trọng đại của lịch sử nhân loại, xảy ra trước và sau sự ra đời của Ngài, cũng đều phải qui tụ vào Công nguyên như vậy?
& Ngài là Ai mà các nhân vật vĩ đại như Đức Phật, Tần Thuỷ Hoàng, Napoléon I, hay Hitler ..v..v..đều được tập kết quanh Công nguyên như vậy?
Thánh Kinh chép về việc làm của Đức Chúa Trời trong sách Đa-ni-ên chương 2 câu 21 Và sách Công-vụ chương 17 câu 30-31 như sau “Chính Ngài thay đổi thì giờ và mùa, bỏ và lập các vua”—“Vậy thì, Đức Chúa Trời đã bỏ qua các đời ngu muội đó, mà nay biểu hết thảy các người trong mọi nơi đều phải ăn năn, vì Ngài đã chỉ định một ngày, khi Ngài sẽ lấy sự công bình đoán xét thế gian, bởi Người (Jêsus) Ngài đã lập, và Đức Chúa Trời đã khiến Người (Jêsus) từ kẻ chết sống lại, để làm chứng chắc về điều đó cho thiên hạ”.
Dù bạn có đồng ý hay không thì Chúa Jêsus vẫn là trung tâm điểm của các thời đại trong lịch sử loài nguời. Trong tương lai, Ngài sẽ là Quan Án để xét xử nhân loại và bạn đấy.
Châu Quân 19-10-2013