|
Cá hồi đỏ là loài sống ở các loại môi trường nước, gồm cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn. |
|
Chúng rục rịch kéo vào sông Adams từ tháng 8 và bắt đầu sinh sản nhiều nhất vào tháng 10 trên chính dòng sông này. |
|
Cá hồi đỏ sẽ lớn lên ở sông Adams đến khi được 1 năm tuổi. Chúng sẽ ra vùng nước lợ ở cửa sông làm quen môi trường có độ mặn thấp, rồi tiến ra biển sống 3 năm liền. |
|
4 năm sau kể từ ngày còn trong quả trứng li ti khi được mẹ sinh ra, cá hồi sẽ quay về đúng nơi mẹ chúng đau đẻ, để tiếp tục làm thiên chức bảo tồn giống nòi. |
|
Khi vào vùng nước ngọt của sông Adams, cơ thể cá hồi dần chuyển sang màu đỏ tươi. |
|
Còn nhiều tranh cãi, nhưng phần lớn các nhà khoa học đều cho rằng, cá hồi định hướng di chuyển bằng mùi. Chúng nhớ được mùi của dòng sông nơi chúng sinh ra nên tìm đường về rất chính xác. |
|
Quãng đường di chuyển hồi hương của chúng dài tới 500km trong điều kiện nước chảy xiết, đúng với hành trình mà chúng ra đi. |
|
Trong quá trình di chuyển, cá hồi đỏ không ăn thứ gì. Đẻ xong, chúng kiệt sức và chết. Cá hồi con sinh ra và lại bắt đầu một hành trình kéo dài 4 năm như thế. |
|
Theo ước tính, mỗi năm, ngư dân Canada đánh bắt khoảng 15 triệu con cá hồi đỏ làm thực phẩm. |
|
Số cá hồi còn sót lại, khoảng 8-10 triệu con, trong đó có một nửa là cá cái sẽ di cư về sông Adams để sinh sản và chết đi. |
|