Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Trong thời gian ở nhà mụ to béo, có
lần Ba-ra-ba cũng đi phố. Và đây, là việc đã xảy đến cho gã vào một trong những
lần đi ít ỏi đó.
Gã vào một ngôi nhà chỉ giống như
một cái chái thấp, có vài lỗ thông hơi để cho ánh sáng vào. Từ những lỗ thông
hơi đó cũng tiết ra một mùi nồng nồng của da thú, của các loại nước cường toan
và những mùi gì gã cũng không biết nữa. Có lẽ đây là một xưởng thuộc da, dầu nó
không ở trong khu phố của các thợ thuộc da, nhưng nằm dưới chân núi của một Đền
Thờ, về phía thung lũng Xết Rôn. Chắc đây là một trong những xưởng để thuộc da
những con thú được dùng làm sinh tế trong Đền Thờ. Nhưng người ta không còn
dùng đến nó nữa. Người ta chứa những thùng lớn để dài theo các vách tường đều
trống rỗng, dầu chúng vẫn còn giữ lại mùi hôi… Dưới đất là những đống vỏ cây
sồi, những rác rến và đồ dơ đủ loại mà người ta dẫm lên trên.
Ba-ra-ba len lén đi lọt vào đó mà
không bị ai chú ý, rồi ngồi xổm trong một góc gần cửa ra vào, nơi gã có thể
nhìn khắp căn phòng đầy những người đang cầu nguyện. Gã không trông thấy hết,
mà chỉ phân biệt được những người tình cờ ngồi ngay dưới những tia sáng lọt qua
các lỗ thông hơi. Nhưng chắc còn có nhiều người khác đang cầu nguyện trong bóng
tối là nơi có những tiếng thì thầm vang ra. Thỉnh thoảng tiếng thì thầm ấy cất
lên từ một phía, để rồi trầm hẳn xuống và hòa lẫn với tiếng rầm rì chung. Lắm
lúc cả mọi người trong căn phòng đều cầu nguyện to lên với lòng nhiệt thành
ngày càng gia tăng, rồi có một người đứng lên để làm chứng về sự sống lại của
Cứu Chúa trong một trạng thái xuất thần. Lúc ấy những người khác im tiếng và
quay đầu về phía người ấy, chừng như muốn thu hút phần sức lực trong người ấy.
Xong rồi họ lại bắt đầu cầu nguyện bằng một sức nóng nảy tăng bội. Thường thì
Ba-ra-ba không thể nào thấy được mặt người làm chứng. Nhưng rồi có một người
đứng dậy ở gần ga. Gã thấy được vẻ hăng say và những giọt mồ hôi chảy dài xuống
đôi má hóp của người ấy. Đó là một người đã có tuổi, người ấy lại đập đầu xuống
nền đất nện, điều mà mọi người làm khi khấn nguyện. Dường như người ấy nhớ rằng
mình còn có một vị Thần khác hơn là người đã bị đóng đinh mà người ấy luôn luôn
đề cập đến.
Sau người ấy có một tiếng nói từ xa
vọng lại mà Ba-ra-ba nhớ mang máng là mình có quen. Quay về hướng đó gã khám
phá ra rằng đó là giọng của người Ga-li-lê có hàm râu hung hung đỏ, đang đứng
giữa một làn ánh sáng. Ông ta nói với giọng trầm tỉnh hơn những người khác với
giọng của xứ mình, mà người Giê-ru-sa-lem cho là quê mùa, khờ khạo. Nhưng chính
ông ta được mọi người chú ý hơn hết, dường như tất cả đều bám lấy môi
miệng ông ta, dầu những lời người ấy nói không có gì lạ thường cả. Ban đầu ông
ta nhắc lại khá lâu về Thầy thân yêu của mình mà ông ta không hề gọi bằng một
tên nào khác hơn. Rồi ông ta nhắc lại rằng theo lời tiên tri của Cứu Chúa, các
tín đồ sẽ bị khủng bố, sát hại vì cớ đầu tiên của họ. Nếu việc sẽ bất ngờ xảy
ra đúng như vậy, họ phải cố gắng hết sức để chịu đựng sự khổ sở bằng cách nghĩ
đến người đã từng chịu đau đớn. Lẽ dĩ nhiên là trái với Thầy, họ đều là những
con người khốn nạn, nghèo ngặt đáng thương, nhưng họ phải cố gắng chịu đựng thử
thách để khỏi phản bội, chối bỏ Thầy. Đó là tất cả những gì mọi người trông
đợi. Dường như người Ga-li-lê kia đã nói điều đó là cho chính mình cũng như cho
mọi người khác. Khi ông ta dứt lời trong đám cử tọa dường như có sự thất vọng.
Chắc vì thấy được điều đó nên ông ta tuyên bố là mình sẽ đọc một bài cầu nguyện
mà có lần Thầy đã dạy mình. Ông ta thi hành ngay và mọi người dường như được
hài lòng hơn, một số còn có vẻ cảm động thực sự nữa. Mọi người dường như
đều ở trong trạng thái xuất thần. Sau bài cầu nguyện, những người ở gần ông
Ga-li-lê hơn hết đã quay lại để cám ơn ông ta. Ba-ra-ba thấy rằng số người đang
ngồi quanh ông ấy chính là những kẻ đã thét lên: “Cút khỏi đây mau, thằng quỉ!”
hôm nọ.
Sau đó còn một vài chứng nhân đầy
dẫy Thần Linh ở trong trạng thái xuất thần khác nữa đến nổi buổi họp cứ tiếp
tục và nhiều người nghiêng bên này, ngã bên nọ, dường như đang bị xúc động rất
mạnh vì cảm kích. Từ cái góc của mình, Ba-ra-ba nhìn họ, quan sát tất cả bằng đôi
mắt thụt sâu vào hai lỗ mắt của gã.
Bổng gã giật nẩy mình. trong một làn
ánh sáng gã thấy ả sứt môi, đôi tay ả đè chặt lấy bộ ngực lép, gương mặt xanh
xao hướng về phía ánh sáng đang chảy dài trên người. Từ buổi sáng họ gặp nhau
trước cửa mộ đến nay, gã chưa gặp lại ả, tự hỏi ả là ai. Dường như không ai
biết ả cả. Rõ ràng là họ thấy ở ả một cái gì kỳ cục mà không thể nói được là
cái gì, ngoài ra bộ quần áo rách tả tơi của ả. Họ tò mò chờ nghe lời làm chứng
của ả.
Sao ả lại đi làm chứng chư thế? Việc
đó có ích lợi gì! Ba-ra-ba nghĩ trong lòng như vậy? Ả phải biết đây không phải
là chỗ của ả chứ. Gã rất bất mãn, dầu việc đó không dính dáng gì với gã hết.
Sao ả lại đi làm chứng.
Dường như ả cũng không say sưa đặc
biệt với chuyện đó lắm. Ả nhắm nghiền đôi mắt hình như không muốn nhìn bất cứ
một ai trong đám người đang vây quanh mình. Ả cho ta cái cảm tưởng là ả muốn
nói gấp cho xong chuyện. Nếu thế thì nói làm chi? Có gì là cần thiết đâu?
Cuối cùng ả cũng bắt đầu nói. Bằng
cái giọng mũi của mình, ả xác nhận đức tin của ả vào Cứu Chúa, và không có ai
cảm động về chuyện đó như đáng phải có. Trái lại ả đã nói bằng một giọng có vẻ
hờn dỗi hơn, khôi hài hơn thường lệ. Lẽ dĩ nhiên là ả đã bị xúc động mạnh khi
đứng trước một số đông người như thế. Đám đông bộc lộ rõ rệt sự khó chịu của
họ. Vài người quay mặt chỗ khác, xấu hổ. Sau hết ả bập bẹ một câu gì như là:
“Thưa Chúa con đã làm chứng cho Ngài rồi đó, như điều Ngài đã dạy con.” Rồi ả
nép mình sát xuống nền đất nện, cố gắng cho người ta càng không thấy mình càng
hay.
Mọi người nhìn nhau, bỡ ngỡ. Dường
như ả đã biến những người trong căn phòng này trở thành những người kỳ cục. Và
có lẽ họ đã có lý. Có lẽ ả đã làm vậy. Sau việc đó, họ chỉ còn muốn có mỗi một
điều: bế mạc buổi họp càng sớm càng tốt. Một trong những cử tọa, một người
trong đám người đã nói “Cút khỏi đây mau, thằng quỉ” đứng lên và tuyên bố là họ
phải giải tán. Rồi ông ta thêm là chắc mọi người đều biết là tại sao họ lại họp
ở đây mà không họp trong thành phố, rằng lần sau buổi họp sẽ được triệu tập tại
một chỗ khác mà bây giờ chưa có thể nói là ở đâu. Chắc Chúa sẽ chọn cho họ một
chỗ trú ẩn để tránh được những kẻ hung bạo. Ngài là người chăn của họ, sẽ chẳng
bao giờ bỏ mặc bầy chiên của mình.
Ba-ra-ba không nghe thêm nữa. Gã đã
lách nhưng ra ngoài trước mọi người và rất lấy làm bằng lòng vì gã đã đi trước
họ rất xa rồi.
Tất cả những việc đó khiến gã bất
nhẫn.
Thánh Kinh
Báo
Tháng 5/1970
(Còn tiếp)