Tết đến, vào
những ngày đầu năm mới, để có lễ ra mắt ông bà trong mùng ba Tết, từ sáng sớm
người ta đã chuẩn bị gà chéo cánh khắp nơi nhang đèn nghi ngút đặng cúng làm lễ
ra mắt tại gia. Dĩ nhiên ngày này cả nước Việt Nam có biết bao con gà bị sát sanh
làm lễ vật, do phong tục cổ truyền này có từ nghìn xưa nào ai ngăn cấm được!
Giới luật đạo Phật đã có hơn hai ngàn năm lâu như thế cũng không thể bác bỏ, dù
là gia đình Phật tử phát xuất từ sự thờ cúng tổ tiên, thế mà đều “bó tay”. Vậy
thử hỏi giới cấm này có thực hành được chăng hay chỉ tuân hành trong giới tăng
ni? Vì tôi chỉ thấy các chùa Bắc Tông tu sỹ chấp trường chay và số ít Phật tử
chấp hành theo. Dù sao thì sự cấm sát sanh là một giới luật đáng cho chúng ta
nêu lên xem có sự hữu ích và tác hại chi trong đời sống trường chay.
Trong giới luật
Phật giáo: Sát sanh là giới cấm đầu tiên cho Phật tử, vì sát sanh xem là trọng tội hơn hết, nó vượt mức đến độ đồng
với tội sát nhân. Triết thuyết này do
quan điểm luân hồi giữa loài người và loài thú luân phiên nhau đi đầu thai
nhiều đời nhiều kiếp, vì con người mắc tội khi chết bị đọa địa ngục rồi đi tái
sanh kiếp khác làm súc sanh ngạ quỷ, và từ súc sanh ngạ quỷ đầu thai làm
người luân chuyển mãi, khó thoát khỏi nghiệp chướng trầm luân. Vì thế
sinh mạng giữa người và thú xem là đồng đẳng như nhau. Do giới cấm sát sanh
Phật tử quá sợ hãi phải ăn chay trường khổ hạnh, rồi kế đó phát sinh ra sự phóng sanh cầu phước.
Giáo chủ Phật
giáo Gotama với tam tịnh nhục: Vào thời nguyên thủy, Đức Phật có thọ thực
trường chay khổ hạnh không? Khi ngài dẫn thập đại đệ tử đi khất thực khắp nước
Ấn Độ thế nào? Đúng là lúc thái tử Gotama từ bỏ ngôi vị vợ con, cắt ái ly gia
trốn vào rừng đi tìm chân lý giải thoát khổ sanh, lão, bệnh, tử. Ngài đã thực hành
phương pháp khổ hạnh. Khi thấy thất bại trong sự tu luyện ở vị thầy đầu tiên,
Phật bỏ đi tự thực hành khổ hạnh một cách phi phàm đến mức kiệt sức ngất xỉu ở
vệ đường. Lúc ấy có cô gái chăn chiên dâng cho Ngài bát sữa tươi. Sau khi dùng
sữa Ngài phục hồi sức khỏe, tinh thần sảng khoái minh mẫn và đêm đó Phật giác
ngộ chánh đẳng giác đắc lục thông. Câu nói “có thực mới vực được đạo” là thế. Từ đó về sau đức Phật xem sự khổ hạnh
là tự mình làm khổ mình, nên không còn chủ trương khổ
hạnh nữa và dạy đệ tử khi đi khất thực phải là người dễ nuôi. Tỳ kheo không nên
đòi hỏi món này ăn được, món kia không ăn được. Hễ ai đặt bát cho vật thực gì
không câu nệ dù là thịt cá, bánh trái, rau quả gì cũng được chẳng nên chấp, vì
Phật bảo: sống chẳng phải để ăn, mà cần có đủ vật thực để sống đặng tu hành. Từ
đó chư tăng và Phật tử đều ăn mặn chỉ thọ thực không sái giờ. Đây xem là tôn
chỉ của giáo chủ Phật giáo thời bấy giờ.
Trong Đại tạng
kinh nguyên thủy nói về tam tịnh nhục như sau: Vì có nhiều người hỏi Đức Phật
sao ăn thịt cá được mà cấm sát sanh? Lúc đó ngài có đặt ra ba điều về việc dùng
thịt sạch:
1/ - Không thấy
giết con vật đó làm thịt đặt bát chư tăng
2/ - Không nghi
giết con vật đó vì mình
3/ - Không nghe
giết là tiếng kêu la của con vật khi đang làm thịt.
Nói tắt là
không: thấy, nghi, nghe giết thì đó là thịt sạch. Các chư tăng dùng không có
tội gọi là “tam tịnh nhục”.
Xã hội văn minh ngày nay việc sát sanh không
còn thành vấn đề nữa, vì có máy móc là lò giết mỗ tự động không cần người ta sát sanh, sản xuất thực phẩm
theo nhu cầu ẩm thực rất
thích hợp với sự thọ thực
tam tịnh nhục của đức Phật vậy.
Ngoài ra có nhiều đạo cấm ăn một số thực
phẩm như thịt bò. Họ còn bôi trát phân bò lên đầu và mặt để tỏ lòng tôn kính,
vì họ thờ bò. Hay như việc cấm tăng ni ăn tỏi trong tiểu bộ kinh Trưởng Lão ni
kệ.
Sau khi Đức Phật
nhập diệt, Phật giáo có tranh luận về vấn đề sát sanh là: nếu không có người ăn
thì chẳng có kẻ giết, vì sát sanh là tội trực tiếp còn người ăn là tội gián
tiếp. Bởi cớ đó Phật giáo chia thành hai hệ phái:
- Hệ phái Bắc Tông, còn gọi là Đại thừa chấp
trường chay.
- Hệ phái Nam Tông nguyên thủy, còn gọi là Tiểu
thừa dùng tam tịnh nhục.
Sự chấp trường
chay của hệ phái Bắc Tông ở Việt Nam : Hệ phái Bắc Tông còn gọi là
Đại thừa chấp trường chay nói lên sự giữ giới trong sạch. Chẳng biết ở Ấn độ có ăn
chay trường như ở hệ phái này không. Vì
quá chú trọng đến phẩm hạnh tu
trì, lấy cái ăn thánh hóa sự siêu phàm thoát tục. Nếu đặt trọng tâm vào
các thực phẩm rau quả nhiều thì rất tốt cho sức khỏe, song việc dùng trường
chay khổ hạnh đi đến sự tác hại là điều không nên. Vì có người bạn của tôi tu
trường chay bị tuột calci trầm trọng đến nỗi không cứu được, nếu vẫn tiếp
tục ăn chay, nên bạn tôi khắc phục bằng cách
chuyển hệ qua hệ phái Nam Tông nguyên thủy, tu cho hợp tình hợp lý, để
có đủ sức khỏe mới mong đạt kết quả tốt vì cần có thân tâm an lạc.
Nhưng giới cấm
sát sanh của hệ phái Bắc Tông không thể giữ trọn được là khi họ đạp phải côn
trùng và hàng ngày dùng rau quả có nhiều sâu bọ bị chết, hoặc trong tương chao
có nhiều vi khuẩn cả trong nước uống có biết bao
là vi sinh vật, đến việc tiêu
trừ muỗi, chuột, gián, để phòng dịch. Họ biết mình không sao giữ được
giới cấm này nên lo sợ, phải đọc một câu thần chú để xóa tội và nguyện cho các
con vật đó siêu sinh tịnh độ. Nhưng đức Phật đã bảo ngài không phải là vị thần
có quyền tha tội hoặc ban phước cho ai cả. Vậy Đấng xóa tội đó là ai?
Các bạn đã biết
rằng chỉ có Đấng Tạo Hóa Đức Chúa Trời có quyền ấy mà thôi. Vì Đấng ấy nắm giữ
sinh mệnh và số phận con người, sao ta không nhận biết để thờ phượng Ngài?
Cơ đốc giáo
không chú tâm nhiều đến hành động ăn thịt thú vật hay ăn rau. Rô-ma 14:1-2
chép: “Hãy bằng lòng tiếp lấy kẻ kém đức
tin, chớ cãi lẫy về sự nghi ngờ. Người nầy tin có thể ăn được cả mọi thứ; người
kia là kẻ yếu đuối, chỉ ăn rau mà thôi.Người ăn chớ khinh dể kẻ không ăn; và
người không ăn chớ xét đoán kẻ ăn, vì Đức Chúa Trời đã tiếp lấy người”.
Cơ Đốc Giáo
cho rằng Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên
vạn vật để nuôi loài người. Còn Phật Giáo tôn trọng mạng sống của loài thú mà
không biết tôn trọng Đấng dựng nên vũ trụ và nhân loại. Đây là nền tảng của
nhiều sai lầm khác kèm theo. Trong khi giới cấm sát sanh của Phật Giáo thì
không ai giữ được, dù Đức Phật cũng không giữ được, vì nấu nước, nấu cơm, luộc
rau, uống nước đều sát hại hằng trăm ngàn sinh vật.
Về trường chay
có chắc là lòng họ không mong cầu thèm muốn vật thực như thịt, cá, tôm? Vậy
họ làm
ra ảnh tượng
cho những món ăn chay là:
thịt quay chay, tôm kho
tàu chay, cá cơm
chiên dòn chay,
phở bò chay,
v.v. có hương vị
giống y như thật. Đầy
dẫy những hình ảnh ăn chay như thế nói lên điều thầm kín trong ước muốn
có món ăn đích thực như vậy! Người cháu tôi kể lại có lần đi chùa, dự lễ xong
rồi dùng cơm chay. Khi nó vào lấy tương thì thấy có một cục thịt ngâm trong đó.
Khi ăn xong ra về lòng buồn bực xốn xang cứ nghĩ đến việc chay trường khổ hạnh
ép xác chi mà dối lòng như thế.
Lại nữa mâu thuẩn
của giới cấm sát sanh
là tỏ ra từ
bi đối với loài vật, nhưng lại khuyến khích tu sĩ
tự thiêu vì mục đích và quyền lợi
riêng thành ra phạm
tội sát nhân mà không thương xót đồng đạo của mình.
Chúng ta
biết rằng tu
không phải do
thức ăn chay
được thành chánh
quả vì thực phẩm để nuôi mạng
sống cho bản thân mình, chắng đem đến sự ích lợi cho tha nhân sao gọi là được phước? Các Phật tử đo lường việc tu
cao thấp thường hỏi ăn chay được bao lâu rồi, có nghĩa là tu được mấy năm rồi?
Hoặc khi đắc thành sở nguyện một điều gì người ta thường van vái là sẽ ăn chay
một tháng, một năm, v.v. để trả lễ. Nếu xem việc ăn chay là tu hành, là phước
đức thì thử hỏi các con trâu, bò và những loài ăn cỏ suốt đời thì thành Phật
hết cả sao?
Hệ phái Nam
Tông với tam
tịnh nhục: Nam Tông nguyên
thủy còn gọi
là Tiểu thừa. Cho đến ngày nay họ
vẫn còn chấp hành theo tôn chỉ của Đức Phật về sự thọ thực tam tịnh nhục. Sự
khác biệt ở họ với Bắc Tông là can đảm chấp nhận điều chê trách về ăn mặn với
danh hiệu Tiểu thừa, song họ đã rất tự hào vì không lấy cái ăn làm cốt lõi vung
bồi phẩm hạnh, thánh hóa đời sống tu hành để khỏi mang tiếng là giả hình.
(Ngoài ra, Tiểu Thừa của Nam Tông còn khác với Bắc Tông về nghi thức, quần áo
và giáo lý nữa.)
Sự phóng sanh:
Từ giới cấm sát sanh khiến Phật tử phóng
sanh thú vật để mong cầu quả báo tốt là
đời sống họ tránh được cảnh cá chậu chim lồng nghĩa là tránh được tù tội giam
cầm để có một đời sống tự do vui vẽ (theo tôi nghĩ nếu họ không làm điều phạm
pháp thì cũng tránh được tội ấy vậy).
Vào ngày rằm
Phật tử thường dặn mối trước là đem đến bán cho họ từ 100 đến 500 con cóc nhái
vì chim cá thời buổi này không đủ ăn, lại giá đắt hơn nhiều. Thế là người bán
về ruộng vườn săn lùng tìm bắt cho đủ số rồi đem ra những chùa ở thành phố bán
cho các Phật tử ấy. Người nguyện phóng sanh tạo phước này mới tìm nơi vắng vẻ
để thả, như công viên mé nước. Khi thả ra lẽ tự nhiên nữa số con cóc nhái bị
chết hoặc thương tật, một số vì không phải chốn ruộng vườn là môi trường hợp
với cách sống của chúng nên đã gây ô nhiễm không ít. Thử hỏi công việc làm phước này có hữu ích
cho vật hoặc người chăng? Nếu không có người dặn mua thì các con vật đó đâu
chịu cảnh tương tàn như vậy. Cái họ nghĩ là phước đã trở thành tội rất sai lầm
các bạn ạ. Cũng như cho mình từ bi đối với loài thú mà lại sát nhân đối với
người bằng cách kêu gọi thúc dục tu sĩ đồng đạo mình tự thiêu vì quyền lợi
chính trị hoặc giáo pháp gì đó, chỉ là nước cờ thế trận người đời chủ trương.
Tự thiêu như thế rất mâu thuẩn với sự yểm thế của nhà Phật. Hậu quả là họ bị
dẫn vào hai trọng tội: Trước là phụ ân Đấng Tạo Hóa Đức Chúa Trời, sau là phụ
ân dưỡng dục là bất hiếu với song thân. Câu “nhân vi quí” và “Thiên sinh vạn vật duy nhân tối
linh” là Trời sinh ra muôn
loài chỉ duy có loài người là có
linh hồn, là sanh linh quý báu nhất theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời. “Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức
Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ” (Sáng-thế-ký 1:27).
“Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào
lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh” (Sáng-thế-ký 2:7).
Ngài
rất yêu thương và bảo tồn nhân loại nên đã ban cho không xiết kể cả
quyền quản trị súc vật: “Đức Chúa Trời
phán:.. làm nên loài người như hình ta
và tượng
ta đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn
trùng bò trên mặt đất và khắp cả đất”
(Sáng-thế-ký 1:26). Sau khi tổ
phụ loài người do sự cám dỗ của rắn Satan mà phạm tội, sự gian ác loài người
càng thêm nên bị hủy diệt trong cơn nước lụt rồi Đức Chúa Trời ban phước cho
Nô-ê và truyền các nguyên tắc: ”Phàm vật chi hành động và có sự sống thì dùng
làm đồ ăn cho các ngươi. Ta cho mọi vật đó như cho thứ cỏ xanh. Song các ngươi
không nên ăn thịt còn hồn sống, nghĩa là có máu” (Sáng-thế-ký 9:3-4).
Dù loài người
được quyền quản trị loài vật song không
được sát hại bừa bãi vì đức hiếu sinh và bảo tồn. Người ta nuôi gia súc gia cầm
làm thực phẩm. Nhưng khi có thiên tai dịch bệnh như lỡ mồm long móng, H1N1, v.v.
người ta phải giết hàng triệu triệu con vật như trâu bò, heo, chim gà vịt, v.v.
hầu bảo vệ con người. Chẳng phải ta không có lòng thương xót loài thú, vì hiện
nay loài vật quý hiếm được nuôi dưỡng chăm sóc ở rừng Phi châu. Thế giới cũng
kêu gọi bảo tồn loài vật sắp tuyệt chủng.
Thực phẩm là nhu
cầu sự sống cho sức khỏe của nhân loại hầu bảo trọng sinh mệnh con người. Đức
Chúa Trời không chấp nhận sự luân hồi chuyển kiếp giữa người và thú, giống nào
phải sinh ra giống nấy, không thể xem sinh mệnh loài thú ngang bằng với loài
người, vì công chính và thánh khiết không do bởi thức ăn làm nên, tự tìm đường
giải thoát với cách tránh sát sanh và trường chay là vô ích. Việc tự thiêu là
điều bị lạm dụng đáng thương và làm ưổng phí một đời người, vì con người bất
lực với tội lỗi mình, không thể làm cách nào xóa tội được. Trước mặt Đấng Tạo
Hóa, do ơn sáng tạo của Ngài mới có mặt chúng ta ở cõi đời này. Ân sủng ban
cho sự cứu
rỗi chỉ duy nhờ Đức Chúa Trời.
Ngoài Đấng Tối cao ấy chẳng có Đấng nào
khác có đủ quyền năng cứu chuộc tội lỗi thế gian: “Ấy là nhờ ân điển bởi đức
tin mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của
Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bời việc làm đâu. Hầu cho không ai khoe mình”
(Ê-phê-sô 2:8, 9).
Nhìn những Phật tử có
thiện tâm đáng thương có
lòng mong muốn tìm đường giải
thoát tội lỗi bằng sự ép xác khổ hạnh như thế. Mong cầu Chúa mở mắt mở lòng cho
họ tìm thấy ánh sáng
chân lý cứu
rỗi của Chúa
cho tâm linh
họ được thức
tỉnh quay về với cội
nguồn, nơi Đức Chúa Trời tạo dựng nhân loại tổ tiên mình. Những dấu hiệu của
ngày tận thế cũng là ngày Đức Chúa Giê-su
tái lâm đã thấy xuất hiện nhiều
nơi, đúng như sự cảnh báo của các
tiên tri trong Kinh Thánh. Vậy ai là người biết
sợ tội lỗi, tự
thấy mình là tội nhân đang
đứng trước sự phán xét của Đức Chúa Trời, hãy tìm kiếm Đức Chúa Giê-su với mục đích tội
được tha, linh hồn được cứu vì khi sự chết đến bất ngờ, họ sẽ không còn cơ hội
nữa.
Hãy kịp ăn năn,
tin cậy và làm vinh hiễn danh Chúa: “Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao
rồi. Vậy hãy làm sáng danh Đức Chúa Trời” (I Cô-rinh-tô 6:20).
Ngọc Thành--Cần thơ