Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Thursday, February 28, 2013

Barabbas – Phần 8




Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Phần 8
Đêm ấy, Baraba len lén trở lại chỗ hố ném đá và leo xuống đó. Vì không thấy đường, nên gã mò mẫm tiến bước. Gã tìm thấy tấm thân nát bấy của ả sứt môi ở tận dưới đáy, hầu như bị che phủ bởi những viên đá ném thêm một cách vô ích, sau khi nạn nhân đã chết rồi. Thi thể ả quá nhỏ bé, nhẹ nhàng hầu như không có gì là nặng nề đối với đôi tay của Baraba khi gã leo lên dốc hố và ôm nó đi trong đêm tối.


Gã mang nó đi luôn mấy giờ liền. Thỉnh thoảng gã dừng lại để nghỉ một chút, thi thể kẻ chết thì đặt nằm dài trước mặt mình. Mây bắt đầu tan dần và các ngôi sao chiếu lấp lánh, một chặp sau trăng cũng mọc lên, nên gã có thể trông rõ nó. Gã ngồi xuống và nhìn gương mặt của người đàn bà. Điều cũng lạ là nó không bị tàn phá bao nhiêu. Nó cũng xanh hơn khi ả còn sống là mấy tí. Thật là một rất khó có được. Trông nó có hơi mờ đục, và chỗ hở trên môi đã bớt đi rất nhiều đến nổi dường như không còn là quan trọng nữa. Dầu sao thì bây giờ nó không còn gì quan trọng nữa.

Gã nhớ lại cái ngày mà gã đã bảo với người đàn bà ấy là gã yêu ả. Khi gã lấy ả – không, gã không muốn nghĩ đến chuyện đó nữa… Nhưng cái ngày mà gã nói với ả rằng gã yêu ả – để ả không từ chối điều gã muốn – thì gương mặt ả đã tươi sáng biết bao! Lúc ấy thì người ta có thể nghĩ là ả không quen được nghe những lời như vậy. Cho nên ả rất sung sướng được nghe chúng, dầu chắc ả phải biết rằng nó chỉ là những lời nói dối. Có lẽ ả đã hiểu chứ? Dầu sao thì gã cũng đạt được mục đích của mình. Mỗi ngày ả đều đến, mang cho gã những gì gã cần để ăn uống, và lẽ dĩ nhiên là chính ả nữa, nhiều hơn cả điều mà gã ao ước. Gã phải lợi dụng ả bởi vì dưới tay gã không còn những người đàn bà nào khác, dầu cái giọng mũi của ả làm gã rất khó chịu. Gã đã van xin ả là đừng bao giờ nói nếu không phải cần thiết lắm. Rồi khi cái chân gã đã lành thì lẽ dĩ nhiên gã lại đi. Gã đâu có làm sao khác hơn thế được!

Gã nhìn vào khung cảnh hoang vắng trải rộng trước mắt, một khung cảnh trống trải, vô hồn dưới ánh trăng mờ. Gã biết rằng cả bốn bên đều y như thế cả. Gã không cần nhìn cũng thừa biết như vậy rồi.
Các con hãy yêu mến nhau… Gã lại nhìn vào gương mặt của kẻ chết. Rồi gã xốc nó lên rồi tiếp tục đi vào các rặng núi.
Gã theo con đường mòn trong sa mạc Giu-đê dành cho lừa và lạc đà; đi từ Giê-ru-sa-lem đến xứ Mô-áp. Con đường mòn này không hiện ra rõ ràng, nhưng những bãi phân súc vật, và thỉnh thoảng một bộ xương khô bị lũ kên-kên rỉa mòn, đã đủ để đánh dấu những khúc quanh. Sau khi đã đi như thế hết nửa đêm thì gã nhận thấy rằng con đường bắt đầu xuống dốc, nên gã biết là cuộc hành trình của mình sắp đến lúc kết thúc. Gã đi qua vài đoạn đèo hẹp rồi đi vào một sa mạc càng hoang vu và vắng lặng hơn. Con đường mòn vẫn tiếp tục, nhưng trước hết Ba-ra-ba phải ngồi xuống để nghỉ một chút, vì gã cũng thấy hơi mệt sau chặng đường đi xuống khá cực nhọc với một gánh nặng trên tay. Nhưng dầu sao thì gã cũng đã đến nơi rồi.

Gã tự hỏi không biết mình có tìm được ngôi mộ, hay lại phải nhờ đến lão già. Gã không muốn đi tìm lão, mà phải làm sao tự mình giải quyết cho xong vụ nầy. Có lẽ lão già sẽ không hiểu được tại sao gã lại đem kẻ chết về đến tận đây. Chính gã thì đã biết hay chưa. Hành động của gã có ý nghĩa gì chăng? Có chứ, bởi vì gã nghĩ rằng ở đây ả đã được trở về cố hương. Nếu thật có một chỗ được gọi là quê hương ả. Ngoài thung lũng Ghinh-ganh kia thì ả chẳng bao giờ được nghĩ ngơi. Còn ở Giê-ru-sa-lem, chắc ả sẽ bị vứt cho chó. Đó là việc không nên. Nhưng dầu sao thì nó có gì là quan trọng đâu? Chuyện đó thì có quan trọng gì đối với ả, nếu gã đem ả trở về chỗ mà ả đã ở trước kia, trước khi bị đuổi đi, để ả được yên nghỉ trong cùng một ngôi mộ với đứa con? Ả sẽ cảm thấy được sung sướng chút nào không? Chắc là không rồi nhưng gã thì lại tha thiết với việc ấy. Muốn làm vui lòng kẻ đã chết thì đâu phải là dễ dàng gì?
Ả sứt môi đã đến Giê-ru-sa-lem để làm gì chứ? Ả đã nghe lời kẻ dẫn đường trong sa mạc ngu dại kia, trong những lần đi lang thang, nói vớ vẩn rằng có một Đấng Cứu Thế mới hiện đến và mọi người tới thành phố của Cứu Chúa đó chăng? Nếu ả chịu nghe lời lão già thì mọi việc chắc đã xảy ra khác hẳn rồi. Lão già không muốn lên đường, bởi vì lão đã từng phí công với chúng quá nhiều lần rồi; đã từng có quá nhiều người tự xưng là Đấng Đấng Cứu Thế nhưng thật ra thì không phải. Tại sao chính người này lại là Đấng Cứu Thế thật? Nhưng ả đã nghe lời bọn điên.
Cho nên bây giờ ả mới phải nằm ngủ dưới chân gã đây, thân thể dập nát, vì cớ ông thầy giảng đạo ấy.

Có phải người ấy là Đấng Cứu Thế thật chăng? Là Cứu Chúa của thế gian thật chăng? Tại sao người ấy lại không tiếp cứu ả tại hố ném đá? Tại sao người ấy lại để cho ả bị ném đá vì mình? Nếu người ấy thật là Cứu Chúa tại sao người ấy lại không cứu ả?
Nếu người ấy muốn thì người ấy có thể làm được. Nhưng người ấy lại thích sự đau đớn của chính mình. Rồi người ta còn làm chứng cho người ấy nữa. “Bây giờ con đã làm chứng cho Ngài rồi, như Ngài đã truyền cho con làm… Sống lại giữa những kẻ chết để làm chứng cho Ngài…”

Không! Ba-ra-ba không thích Người bị đóng đinh đó. Gã ghét người ấy. Chính người ấy đã giết người đàn bà này. Chính người ấy đã đòi hỏi ả phải hy sinh và đã sắp xếp cho ả không thoát khỏi được, vì người ấy đã có mặt tại hố ném đá. Ả đã trông thấy đã tiến lên để được gặp người ấy. Ả đã đưa đôi tay ra để van xin, cũng đã nắm lấy vạt áo choàng của người ấy – nhưng người ấy đã không làm gì động đến móng tay để giúp ả. Và như vậy mà là Con Thượng Đế! Cứu Chúa của thế gian!

Chính gã, Ba-ra-ba, ít ra cũng đã giết được kẻ ném viên đá đầu tiên. Lẽ dĩ nhiên là việc đó không có ích lợi gì hết. Chuyện đó thật vô nghĩa. Viên đá đã bị ném đi và trúng vào ả. Nhưng dầu sao gã cũng hạ được tên đó!
Gã rờ lên cái miệng méo mó của ả sứt môi và cười thầm. Rồi gã nhún vai và đứng dậy. Bằng một cử chỉ tỏ vẻ sốt ruột, gã lại sốc cái gánh nặng của mình lên, dường như gã đã chán nản lắm rồi, và tiếp tục đi.

Gã đi ngang qua chiếc hang đá ẩn trú của lão già mà gã đã được biết vào cái ngày mà gã tình cờ đến đó. Và gã cố nhớ lại con đường mà lão già đã dẫn gã đến phần mộ của thằng bé. Họ đã bỏ lại bên mặt cái hốc đá của bọn cùi, còn ở đàng trước mặt là cái hang đá của những người dẫn đường trong sa mạc, nhưng họ đã không đến tận đó.

Phải rồi, Ba-ra-ba lại trở về đúng chỗ đó, dầu quanh cảnh dưới ánh trăng thanh trông không còn giống như trước nữa. Đây là triền dốc mà họ đã đi xuống khi lão già kể cho gã nghe rằng thằng bé sinh ra là đã chết rồi, bởi vì nó đã bị nguyền rủa ngay từ lúc hãy còn nằm trong bụng mẹ. Lão đã chôn nó ngay. Và những đứa chết từ lúc sơ sinh đều bất khiết. “Bông trái của lòng dạ mình đáng bị nguyền rủa.” Mẹ nó đã không thể dự được đám tang nó, nhưng vẫn  thường ra ngồi trên mộ. Lão già đã tán chuyện không ngừng.

Có lẽ là chỗ này? Có phải ở đây không? Phải rồi, đã thấy được cái nắp đậy.
Gã dở nó lên và để người chết gần bên cái thi thể đã hoàn toàn khô cứng của đứa nhỏ. Gã sửa lại cái xác chết rách nát của ả, dường như gã muốn cho ả được đặt nằm chôn ngay ngắn, và cuối cùng nhìn vào gương mặt mà chỗ môi hở không còn là quan trọng nữa.  Rồi gã đậy nắp  mộ, ngồi xuống và trầm ngâm nhìn bãi sa mạc. Gã nghĩ rằng quan cảnh này chắc là giống  với quan cảnh trong xứ của những kẻ chết mà bây giờ gã đang ở. Gã đã đem ả đến đó. Người ta đã yên giấc ngàn thu ở chỗ này hay ở chỗ khác thì không sao cả, nhưng ít ra là ả được gần với đứa con chớ không phải ở chỗ nào khác. Gã tự nhủ là mình đã làm điều có thể làm được cho ả. Và gã vừa vuốt hàm râu đỏ của mình vừa mĩm cười.

Các ngươi hãy yêu mến lẫn nhau.
(Còn tiếp)
Thánh Kinh Báo
Tháng 8/1970