Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Người dịch: Hướng Dương
Phần 8
Đêm ấy,
Baraba len lén trở lại chỗ hố ném đá và leo xuống đó. Vì không thấy đường, nên
gã mò mẫm tiến bước. Gã tìm thấy tấm thân nát bấy của ả sứt môi ở tận dưới đáy,
hầu như bị che phủ bởi những viên đá ném thêm một cách vô ích, sau khi nạn nhân
đã chết rồi. Thi thể ả quá nhỏ bé, nhẹ nhàng hầu như không có gì là nặng nề đối
với đôi tay của Baraba khi gã leo lên dốc hố và ôm nó đi trong đêm tối.
Gã mang nó
đi luôn mấy giờ liền. Thỉnh thoảng gã dừng lại để nghỉ một chút, thi thể kẻ
chết thì đặt nằm dài trước mặt mình. Mây bắt đầu tan dần và các ngôi sao chiếu
lấp lánh, một chặp sau trăng cũng mọc lên, nên gã có thể trông rõ nó. Gã ngồi
xuống và nhìn gương mặt của người đàn bà. Điều cũng lạ là nó không bị tàn phá
bao nhiêu. Nó cũng xanh hơn khi ả còn sống là mấy tí. Thật là một rất khó có
được. Trông nó có hơi mờ đục, và chỗ hở trên môi đã bớt đi rất nhiều đến nổi
dường như không còn là quan trọng nữa. Dầu sao thì bây giờ nó không còn gì quan
trọng nữa.
Gã nhớ lại
cái ngày mà gã đã bảo với người đàn bà ấy là gã yêu ả. Khi gã lấy ả – không, gã
không muốn nghĩ đến chuyện đó nữa… Nhưng cái ngày mà gã nói với ả rằng gã yêu ả
– để ả không từ chối điều gã muốn – thì gương mặt ả đã tươi sáng biết bao! Lúc
ấy thì người ta có thể nghĩ là ả không quen được nghe những lời như vậy. Cho
nên ả rất sung sướng được nghe chúng, dầu chắc ả phải biết rằng nó chỉ là những
lời nói dối. Có lẽ ả đã hiểu chứ? Dầu sao thì gã cũng đạt được mục đích của
mình. Mỗi ngày ả đều đến, mang cho gã những gì gã cần để ăn uống, và lẽ dĩ
nhiên là chính ả nữa, nhiều hơn cả điều mà gã ao ước. Gã phải lợi dụng ả bởi vì
dưới tay gã không còn những người đàn bà nào khác, dầu cái giọng mũi của ả làm
gã rất khó chịu. Gã đã van xin ả là đừng bao giờ nói nếu không phải cần thiết
lắm. Rồi khi cái chân gã đã lành thì lẽ dĩ nhiên gã lại đi. Gã đâu có làm sao
khác hơn thế được!
Gã nhìn
vào khung cảnh hoang vắng trải rộng trước mắt, một khung cảnh trống trải, vô
hồn dưới ánh trăng mờ. Gã biết rằng cả bốn bên đều y như thế cả. Gã không cần
nhìn cũng thừa biết như vậy rồi.
Các con
hãy yêu mến nhau… Gã lại nhìn vào gương mặt của kẻ chết. Rồi gã xốc nó lên rồi
tiếp tục đi vào các rặng núi.
Gã theo
con đường mòn trong sa mạc Giu-đê dành cho lừa và lạc đà; đi từ Giê-ru-sa-lem
đến xứ Mô-áp. Con đường mòn này không hiện ra rõ ràng, nhưng những bãi phân súc
vật, và thỉnh thoảng một bộ xương khô bị lũ kên-kên rỉa mòn, đã đủ để đánh dấu
những khúc quanh. Sau khi đã đi như thế hết nửa đêm thì gã nhận thấy rằng con
đường bắt đầu xuống dốc, nên gã biết là cuộc hành trình của mình sắp đến lúc
kết thúc. Gã đi qua vài đoạn đèo hẹp rồi đi vào một sa mạc càng hoang vu và
vắng lặng hơn. Con đường mòn vẫn tiếp tục, nhưng trước hết Ba-ra-ba phải ngồi
xuống để nghỉ một chút, vì gã cũng thấy hơi mệt sau chặng đường đi xuống khá
cực nhọc với một gánh nặng trên tay. Nhưng dầu sao thì gã cũng đã đến nơi rồi.
Gã tự hỏi
không biết mình có tìm được ngôi mộ, hay lại phải nhờ đến lão già. Gã không
muốn đi tìm lão, mà phải làm sao tự mình giải quyết cho xong vụ nầy. Có lẽ lão
già sẽ không hiểu được tại sao gã lại đem kẻ chết về đến tận đây. Chính gã thì
đã biết hay chưa. Hành động của gã có ý nghĩa gì chăng? Có chứ, bởi vì gã nghĩ
rằng ở đây ả đã được trở về cố hương. Nếu thật có một chỗ được gọi là quê hương
ả. Ngoài thung lũng Ghinh-ganh kia thì ả chẳng bao giờ được nghĩ ngơi. Còn ở
Giê-ru-sa-lem, chắc ả sẽ bị vứt cho chó. Đó là việc không nên. Nhưng dầu sao
thì nó có gì là quan trọng đâu? Chuyện đó thì có quan trọng gì đối với ả, nếu
gã đem ả trở về chỗ mà ả đã ở trước kia, trước khi bị đuổi đi, để ả được yên
nghỉ trong cùng một ngôi mộ với đứa con? Ả sẽ cảm thấy được sung sướng chút nào
không? Chắc là không rồi nhưng gã thì lại tha thiết với việc ấy. Muốn làm vui
lòng kẻ đã chết thì đâu phải là dễ dàng gì?
Ả sứt môi
đã đến Giê-ru-sa-lem để làm gì chứ? Ả đã nghe lời kẻ dẫn đường trong sa mạc ngu
dại kia, trong những lần đi lang thang, nói vớ vẩn rằng có một Đấng Cứu Thế mới
hiện đến và mọi người tới thành phố của Cứu Chúa đó chăng? Nếu ả chịu nghe lời
lão già thì mọi việc chắc đã xảy ra khác hẳn rồi. Lão già không muốn lên đường,
bởi vì lão đã từng phí công với chúng quá nhiều lần rồi; đã từng có quá nhiều
người tự xưng là Đấng Đấng Cứu Thế nhưng thật ra thì không phải. Tại sao chính
người này lại là Đấng Cứu Thế thật? Nhưng ả đã nghe lời bọn điên.
Cho nên
bây giờ ả mới phải nằm ngủ dưới chân gã đây, thân thể dập nát, vì cớ ông thầy
giảng đạo ấy.
Có phải
người ấy là Đấng Cứu Thế thật chăng? Là Cứu Chúa của thế gian thật chăng? Tại
sao người ấy lại không tiếp cứu ả tại hố ném đá? Tại sao người ấy lại để cho ả
bị ném đá vì mình? Nếu người ấy thật là Cứu Chúa tại sao người ấy lại không cứu
ả?
Nếu người
ấy muốn thì người ấy có thể làm được. Nhưng người ấy lại thích sự đau đớn của
chính mình. Rồi người ta còn làm chứng cho người ấy nữa. “Bây giờ con đã làm
chứng cho Ngài rồi, như Ngài đã truyền cho con làm… Sống lại giữa những kẻ chết
để làm chứng cho Ngài…”
Không!
Ba-ra-ba không thích Người bị đóng đinh đó. Gã ghét người ấy. Chính người ấy đã
giết người đàn bà này. Chính người ấy đã đòi hỏi ả phải hy sinh và đã sắp xếp
cho ả không thoát khỏi được, vì người ấy đã có mặt tại hố ném đá. Ả đã trông
thấy đã tiến lên để được gặp người ấy. Ả đã đưa đôi tay ra để van xin, cũng đã
nắm lấy vạt áo choàng của người ấy – nhưng người ấy đã không làm gì động đến
móng tay để giúp ả. Và như vậy mà là Con Thượng Đế! Cứu Chúa của thế gian!
Chính gã,
Ba-ra-ba, ít ra cũng đã giết được kẻ ném viên đá đầu tiên. Lẽ dĩ nhiên là việc
đó không có ích lợi gì hết. Chuyện đó thật vô nghĩa. Viên đá đã bị ném đi và
trúng vào ả. Nhưng dầu sao gã cũng hạ được tên đó!
Gã rờ lên
cái miệng méo mó của ả sứt môi và cười thầm. Rồi gã nhún vai và đứng dậy. Bằng
một cử chỉ tỏ vẻ sốt ruột, gã lại sốc cái gánh nặng của mình lên, dường như gã
đã chán nản lắm rồi, và tiếp tục đi.
Gã đi ngang
qua chiếc hang đá ẩn trú của lão già mà gã đã được biết vào cái ngày mà gã tình
cờ đến đó. Và gã cố nhớ lại con đường mà lão già đã dẫn gã đến phần mộ của
thằng bé. Họ đã bỏ lại bên mặt cái hốc đá của bọn cùi, còn ở đàng trước mặt là
cái hang đá của những người dẫn đường trong sa mạc, nhưng họ đã không đến tận
đó.
Phải rồi,
Ba-ra-ba lại trở về đúng chỗ đó, dầu quanh cảnh dưới ánh trăng thanh trông
không còn giống như trước nữa. Đây là triền dốc mà họ đã đi xuống khi lão già
kể cho gã nghe rằng thằng bé sinh ra là đã chết rồi, bởi vì nó đã bị nguyền rủa
ngay từ lúc hãy còn nằm trong bụng mẹ. Lão đã chôn nó ngay. Và những đứa chết
từ lúc sơ sinh đều bất khiết. “Bông trái của lòng dạ mình đáng bị nguyền rủa.”
Mẹ nó đã không thể dự được đám tang nó, nhưng vẫn thường ra ngồi trên mộ.
Lão già đã tán chuyện không ngừng.
Có lẽ là
chỗ này? Có phải ở đây không? Phải rồi, đã thấy được cái nắp đậy.
Gã dở nó
lên và để người chết gần bên cái thi thể đã hoàn toàn khô cứng của đứa nhỏ. Gã
sửa lại cái xác chết rách nát của ả, dường như gã muốn cho ả được đặt nằm chôn
ngay ngắn, và cuối cùng nhìn vào gương mặt mà chỗ môi hở không còn là quan
trọng nữa. Rồi gã đậy nắp mộ, ngồi xuống và trầm ngâm nhìn bãi sa
mạc. Gã nghĩ rằng quan cảnh này chắc là giống với quan cảnh trong xứ của
những kẻ chết mà bây giờ gã đang ở. Gã đã đem ả đến đó. Người ta đã yên giấc
ngàn thu ở chỗ này hay ở chỗ khác thì không sao cả, nhưng ít ra là ả được gần
với đứa con chớ không phải ở chỗ nào khác. Gã tự nhủ là mình đã làm điều có thể
làm được cho ả. Và gã vừa vuốt hàm râu đỏ của mình vừa mĩm cười.
Các ngươi
hãy yêu mến lẫn nhau.
(Còn tiếp)
Thánh Kinh
Báo
Tháng 8/1970
Tháng 8/1970