Có vài người hay
đặt câu hỏi: Ai sinh ra Đức Chúa Trời?
Họ nghĩ rằng không ai
trả lời nổi câu hỏi của họ. Dường như họ cảm thấy mình đã “nắm chân lý
trong tay” vì tin theo các tôn giáo ngoài Kinh Thánh.
Tri thức của nhân loại chưa bao giờ biết chắc
chắn về Đức Phật, vì nhân loại chưa có ai thành Phật như Đức Thích Ca. Nhân
loại cũng không đủ khả năng hiểu biết Đức Chúa Trời, vì thế Đức Chúa Trời ban
cho nhân loại một Đức Tin để biết Ngài. Ai không muốn tiếp nhận Đức Tin của Đức
Chúa Trời ấy là người vô cùng ngu dại và ngông cuồng, không bao giờ hiểu được
chân lý. Kẻ thiếu sự hiểu biết chưa phải là kẻ vô đạo, nhưng kẻ khước từ Đức
Tin là kẻ vô đạo. Tôi biết nhiều người Phật Giáo vừa tin Phật vừa tin Trời. Họ
cầu Trời trước khi khẩn Phật. Nhưng đó là niềm tin của họ chứ không phải là đức
tin của Đức Chúa Trời ban cho. Ma quỷ cũng tin có Đức Chúa Trời, nhưng ma quỷ
không muốn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Giống như đứa
con bất hiếu, nó biết cha mẹ nó, nhưng nó không muốn làm đẹp lòng cha mẹ nó.
Đứa con bất hiếu vẫn có cha mẹ, cũng như kẻ không tin Đức Chúa Trời thì vẫn có
Đức Chúa Trời. Đứa con bất hiếu luôn luôn trốn khỏi mặt cha mẹ nó, cũng như kẻ
che dấu tội lỗi luôn luôn trốn chạy khỏi Đức Chúa Trời. Nếu không phải là cha
mẹ thật thì không ai dám xác nhận mình là cha mẹ của ai. Cũng thế, chỉ có Đức
Chúa Trời mới xác nhận Ngài là Đức Chúa Trời của nhân loại và Ngài ban cho
chúng ta một Đức Tin duy nhất. Cũng vậy,
không có một đứa con nào có thể xác minh được cha mẹ của nó, nếu cha mẹ nó
không có một sự xác nhận trước về phẩm chất tình yêu thương và dòng dõi của nó.
Tất cả những đứa trẻ đều tin cha mẹ mình là cha mẹ của mình mà chúng không cần
ai giải thích gì cả. Niềm tin nầy không phải do nó tạo ra
mà do cha mẹ nó đặt vào lòng nó bằng
phẩm chất yêu thương, nuôi nấng, chăm
sóc, dạy dỗ. Nên nhớ rằng sự yêu thương, nuôi nấng, chăm sóc dạy dỗ chưa phải
là bằng chứng về huyết thống của cha mẹ. Nhưng khi đứa trẻ tin vào cha mẹ thì
tuổi thơ của nó được phát triển bình thường. Nó dễ học hành, dễ trưởng thành và
dễ phát triển bản chất đạo đức luân lý. Sự nuôi nấng chăm sóc thể hiện ra bên
ngoài, nhờ đó, đứa trẻ nhận biết và tin người nuôi nấng chăm sóc là cha mẹ của
nó. Niềm tin nầy có một phẩm chất và giá trị huyết thống trong tâm hồn của đứa
trẻ. Niềm tin nầy là nguồn cội của đạo đức luân lý mà con người muốn truyền lại
từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Đức Chúa Trời biết rõ con người hơn ai hết nên
Ngài ban cho chúng ta Đức Tin và Ngài dạy rằng hãy có Đức Tin như đứa trẻ. Vì
cách gì thì Ngài vốn là Cha của chúng ta, là Đấng dựng nên vạn vật muôn loài.
Ngài mặc khải Đức Tin của ngài trong lương tâm nhân loại, qua thiên nhiên, qua
Kinh Thánh, và thực tế nhất là Ngôi Lời.
Trong Kinh Thánh
Cựu ước, Xuất ê-díp-tô ký đoạn 3 câu 14, Đức Chúa Trời trả lời Moise rằng “Ta
là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu”. Đây là một câu mà chính Đức Chúa Trời muốn bày tỏ cho
nhân loại biết Ngài là ai, Ngài đã, đang và sẽ còn như thế nào. Bốn chữ Tự Hữu
Hằng Hữu cho chúng ta thấy Ngài hiện hữu vĩnh hằng, không còn quá khứ, hiện
tại, hay tương lai nữa. Không ai sinh ra
Ngài được vì
Ngài là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. Ngôn ngữ
loài người
không còn cách nào diễn tả tốt hơn về bổn tính hằng hữu của Ngài. Tôi không
muốn trưng dẫn
quá nhiều câu Kinh Thánh cả Tân Ước
và Cựu Ước để
làm rối trí các bạn. Nhưng
tôi xác nhận rằng toàn bộ Kinh Thánh đều bày tỏ cho nhân
loại thấy bản thể vô
lượng của Đức Ai sinh ra Đức Chúa Trời Chúa Trời như chính Ngài đã phán.
Trí hiểu biết của nhân loại tự cổ chí kim đều có giới hạn, vì thế nhân loại
không đủ khả năng hiểu rõ bản tính vô lượng
của Đấng Tự Hữu Hằng Hữu.
Tuy loài người là loài thông
minh, tiến bộ, tuyệt đối khác hẵn với muôn loài, nhưng loài
người cũng chỉ
thông minh đủ để hiểu rằng tri thức của mình là quá ít so với những gì mênh
mông vô tận đã được
dựng nên. Bất cứ ai còn đòi hỏi một câu trả lời về bản tính vô lượng của Đức Chúa
Trời (dù là bằng thiện
chí hay bằng tính ngông cuồng) đều chứng tỏ rằng người ấy chưa đủ khả năng để
nhận biết sự ngu dại của mình trước
Đấng vô lượng
vô biên.
Người như thế hay nói bừa,
nghĩ bừa theo ý chủ quan của mình mà không hề có một cảm giác xấu hổ trước sự sai trật và
tính ngông cuồng của mình. Con người
hữu hạn không đủ khả năng với tới sự vô hạn. Ai còn cố gắng với tới sự vô hạn,
ấy là người
đáng khen, nhưng
người đáng khen
hơn hết là người
nhận biết khả năng hạn hẹp của mình. Vì khi nhận biết khả năng hạn hẹp của mình
là khi mình bắt đầu biết kính sợ Đấng vô lượng vô biên, nhờ vậy đức tính khiêm tốn nhu mì được huân tập từ trong
lòng.
Suốt nhiều ngàn
năm nhân loại đã có những câu Kinh Thánh ngắn gọn như trên về bản tính vô lượng của Đấng dựng nên trời đất. Không ai dám tự
cho mình là kẻ đã đạt đến sự hiểu biết vô tận, mặc dù xưa nay còn có nhiều người ngu dại vẫn khước từ Đức Chúa Trời và tự cho rằng mình có khả
năng đạt đến sự thông tuệ toàn vẹn. Vì thế Kinh Thánh xác nhận rằng “Kẻ ngu dại
nói trong lòng rằng không có Đức Chúa Trời” (Thi Thiên 14:1).
Ngày xưa thái
tử Tất Đạt Đa nhận ra sự hiểu
biết hữu hạn của mình trước ý nghĩa mênh mông
của cuộc đời. Thái tử muốn đạt đến sự thông tuệ vô biên để tìm câu giải đáp cho
tất cả những thắc mắc của mình. Ngài đã cố gắng học tập và tu luyện nhưng không có kết quả.
Khi gần kiệt
sức, Ngài mới uống một ly sữa dê do cô gái chăn dê bố thí, và Ngài thề ngồi một
chỗ để định tâm tìm cho ra “chân lý vô biên” ấy. Trước khi ngồi một chỗ, Ngài không ngờ tâm trí của
mình lại xuất hiện “hào quang, thông tuệ, thần thông....” để Ngài nhận biết tất
cả mọi bí mật của vũ trụ. Sau khi thấy mình đã giác ngộ, tức là đã nhận biết
tất cả bí mật của vũ trụ, Ngài tự xưng
mình đã thành Phật và giảng ra những phương
pháp tu hành giúp cho nhân loại cũng thành Phật như chính Ngài. Ngài cho rằng con kiến, con sâu
cũng thành Phật được
nếu nó chấp nhận tu theo giáo lý của Ngài. Ai đã thành Phật rồi thì không còn
sanh, không còn già, không còn bịnh, và không còn chết nữa (giải thoát khỏi
sanh tử luân hồi). Chưa
giảng xong giáo lý bất tử ấy thì Ngài đã chết. Nên nhớ rằng niềm
tin vào thuyết sanh tử luân hồi
là một niềm tin truyền
thống nhân gian được
tập trung trong các giáo lý Bà
La Môn và Ấn Độ Giáo hàng ngàn năm
trước
khi thái
tử Tất Đạt Đa giác ngộ.
Ngày nay giáo lý
của Phật cho rằng có vô lượng
pháp môn tu để thành Phật, dù không có ai thành Phật như Ngài. Không mấy ai đọc hết sách vở của Phật
Giáo, và dù có đọc hết cũng chỉ hình dung một phần nhỏ trong vô lượng vô biên bất khả
tư nghị - vô
lượng thậm thâm vi diệu pháp, bách thiên bạn kiếp nan tao ngộ! Đây là một lối
diễn tả ngắn gọn giúp cho tất cả những kẻ ngu si hay người thông thái chấp nhận rằng mình chưa hiểu gì cả, nhưng mình có thể tin.
Trong mênh mông vô tận thì kẻ ngu dại và người thông thái đều kém cỏi như nhau.
Vì thế một người đã tự cho mình là
giác ngộ và muôn ngàn kẻ chưa
giác ngộ đều định nghĩa hai chữ giác ngộ theo cách thức và văn tự giống nhau.
Ấy bởi vì họ tin vào sự giác ngộ, chứ thật ra chưa có ai thật sự đã giác ngộ. Chính Đức Thích Ca
nghĩ rằng mình đã giác ngộ sau khi ngồi một chỗ và bị ảo giác thiền làm cho tâm
trí tán loạn theo lòng ham muốn của mình.
Lòng ham muốn
của thái
tử Tất Đạt Đa lúc ấy là một loại
ham muốn lớn nhất trong mọi ham muốn của
nhân loại, mà ngày nay giáo lý của Ngài cũng đã xác nhận: ấy là sự tham dục muốn giác ngộ thành Phật để đạt
đến thông tuệ trên vạn vật.
Kinh Thánhcho
chúng ta
thấy lòng tham dục nầy phát xuất từ
Satan. Satan có khả năng vượt trội hơn loài người, nó muốn ngang bằng Đức Chúa Trời và muốn
biến nhân loại trở thành loài có bản
tính tham dục “cao siêu” như
nó. Ai đã lâm vào tính kiêu ngạo của Satan thì
rất khó mà ra khỏi quyền lực đen
tối của nó. Con người
kiêu ngạo là con người
không bao giờ thấy mình sai, không bao giờ thấy mình dốt. Con người ấy có thể đưa ra hàng vạn giáo
lý mâu thuẫn nhau và cho rằng đó là vô lượng pháp môn
tu để cám dỗ những người
Ai sinh ra Đức Chúa Trời muốn theo lòng dục
của mình. Họ không hình dung nỗi
vô lượng là gì cả, nhưng họ sẵn sàng bài bác mọi niềm tin không giống họ bằng ngôn ngữ “vô lượng”.
Họ chỉ căn cứ vào lòng dục của mình để tin vào những điều họ chưa bao giờ chứng
nghiệm, nhưng
luôn luôn nói rằng niềm tin đó là khoa học, là chứng nghiệm. Họ tin vào sự giác
ngộ của một người
để bài bác đức tin của nhân loại vốn có từ ngàn xưa. Họ trang bị cho niềm tin của họ bằng câu kinh
sau đây ”Nếu một người nào đó đến
nói với nhà ngươi một điều gì đó.
Sau khi nhà ngươi suy nghĩ
kỹ càng và
thấy rằng điều đó
không đúng, nhà ngươi đừng tin.
Nếu một người nào đó đến nói với ngươi một điều gì đó. Sau khi nhà ngươi suy
nghĩ kỹ càng và thấy điều đó đúng, phải, chân lý thì nhà ngươi nên tin”. Trên
thực tế thì họ chưa
hiểu hết giáo lý
Phật Giáo vì họ
chưa thành
Phật. Họ chưa
thành Phật mà họ đã định nghĩa Phật là thế nầy, Phật là thế nọ... Họ tin tất cả
những giáo lý mâu thuẫn của tôn giáo ấy mà từ xưa đến nay vẫn chưa có một ai thành đạt như thái tử Tất Đạt Đa. Họ che dấu tội lỗi của mình
bằng cách đòi phải giải thích cho bằng được “ai dựng nên Đức
Chúa Trời” thì họ mới tin. Họ
tìm tòi trích dẫn một vài câu
kinh văn để xuyên tạc toàn bộ nội dung Thánh Kinh và cố tình bỏ qua chân lý,
tình yêu thương,
lòng nhân từ của Đức Chúa Trời. Những hành động đó thật quá đủ để chứng minh
rằng họ tự mâu thuẫn với các câu kinh mà họ đang trưng dẫn, vì họ cũng chỉ tin vào những điều mà họ
chưa biết gì
cả. Quả thật họ là những kẻ đáng thương.
Là người có
Chúa, chúng ta không nên tranh cạnh hơn thua với họ mà chỉ tỏ lòng yêu thương và cầu nguyện
cho họ, vì họ là những đứa con lạc đường
cần được dắt
dẩn trở về nhà Cha mà họ chưa
nhận biết. Hầu hết họ là những người tin
theo tôn giáo truyền
thống từ gia đình họ hàng trong
xã hội á Đông vốn chịu ảnh hưởng
văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ qua nhiều thế hệ. Đa số người Phật Giáo có bản tính văn hóa hiền hòa bình
dị không ba hoa lý luận ngông cuồng như
những anh chàng mạo xưng
là “trí thức Phật Giáo.” Số người
“trí thức” nầy tuy rất ít nhưng
họ hay viết lách lăng nhăng tạo ra dư
luận ồn ào. Họ ưa
gây hấn và không biết hổ thẹn về sự ngu dốt của mình vì chính họ chưa dám nhận ra sự ngu
dốt của họ.
Tôi kêu gọi con
cái Chúa nào thật sự có Đức Tin trong Chúa và đã có kết quả được tái sanh trong
quyền năng của Ngài, dù ở bất cứ giáo phái nào, thì cũng nên cầu nguyện cho
những người
ngông cuồng ngu dại kiêu căng đáng thương
ấy. Vì họ chỉ là công cụ của Satan. Họ đam mê tri thức của sự ngu dại và khoe
khoang sự dối trá của mình mà họ không biết gì về lẽ thật. Một khi họ đã cố ý
không tin vào thiên đàng, không tin vào địa ngục và luôn luôn phủ nhận Đấng Tạo
Hóa thì chúng ta cũng nên để mặc họ tự do đi vào con đường tối tăm cho đến bao giờ họ nhận biết rõ hơn
về mình. Giáo lý Đạo Phật cũng có đề cập đến địa ngục và cõi giải thoát. Nhưng giáo lý nầy cũng
phủ nhận tất cả. Giáo lý nầy không phải chỉ riêng
Đức Thích Ca
thuyết giảng mà còn cả trăm ngàn tu sỹ, cư tỹ khác trong nhiều dân tộc đã và đang diễn
dịch ra nhiểu tông phái, môn phái mâu thuẫn nhau; thế nhưng họ vẫn cho là cao siêu vô lượng. Đúng như Lời Chúa đã xác
nhận, họ tự lấy bụng mình làm chúa tể của mình.
Chúng ta cần bày
tỏ tình yêu thương,
lòng tha thứ, đức nhân từ của Chúa qua đời sống của chúng ta để giúp họ nhận ra
bổn tính siêu phàm mà Đức Chúa Trời đã tái sanh trong chúng ta hôm nay. Ai cũng
đuợc kinh nghiệm tái sanh sau khi thật lòng trở về ăn năn tội tiếp nhận Chúa
Jesus Christ làm cứu Chúa của mình.
Satan muốn gì?
Quá dễ hiểu!
Satan muốn con người
lừa dối, sân si, kiêu ngạo, gây hấn... bằng những lời lẽ đạo đức giả, bằng
những giáo lý ngụy cao siêu mâu thuẫn trong bản chất hạn hẹp của con người. Lịch sử nhân
loại đã cho chúng ta thấy hàng triệu người
vẫn hãnh diện nộp mình làm nạn nhân của Satan. Kinh Thánh đã tiên báo tất cả
những điều ấy. Dù hàng triệu người
còn đam mê những tham dục của thế gian, hàng triệu người bị Satan mê muội để nộp mình vào con đường tối
tăm, nhưng
Đức Chúa Trời không ép buộc ai phải vào nước thiên
đàng của Ngài. Vì nước
Đức Chúa Trời là nơi tuyệt đối tự do đối với những ai muốn thể hiện tự sống với
điều lành tránh xa điều ác theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời. Bổn tính công
bình của Đức Chúa Trời được thể hiện bất cứ nơi nào, với bất cứ ai.
Chúng ta có thể nhận
ra một phần nhỏ về bổn tính công bình của Ngài qua thiên nhiên, qua luật
nhân quả vật lý và luật Ai sinh ra Đức Chúa Trời nhân quả đạo lý. Trong khi
Satan dùng từ ngữ luật nhân quả mà lại xúi con người tìm cách thoát ra khỏi luật nhân quả. Thật ra
không ai tự mình thoát ra khỏi luật nhân quả được hết.
Đức Thích Ca tự
cho mình đã thành Phật, đó là kết quả của một cuộc đời làm cho cha mẹ mình đau
khổ, làm cho vợ con mình cô đơn quặn thắt, và suốt những năm tháng Ngài trải
qua sự đau đớn khổ tu, tự hành hạ thể xác mình cho đến kiệt sức mới biết mình
lạc đường để
chấp nhận ngồi một chỗ tĩnh niệm bên bờ sông Ni-Liên. Thế nhưng Ngài vẫn biết
mình chưa
phải là Đấng toàn năng
toàn trí, vì Ngài chưa
nói được điều đáng
nói cho
thế gian.
Ngài bảo rằng:
“Suốt 49 năm giảng đạo, thật tình ta chưa nói được một điều gì cả”. Đúng thế,
Đức Thích Ca là một người
như chúng ta,
nhưng Ngài có
một điểm nổi bật hơn nhiều người;
ấy là Ngài rất khiêm tốn khi nhận biết rằng mình là một kẻ hữu hạn, bất năng,
chưa nói lên được bản thể chân lý
hằng hữu. Tuy nhiên nếu không có một giáo lý bất khả thi của Đức Thích Ca thì
Satan vẫn muốn thế gian nầy dựa vào trăm ngàn giáo lý bất khả thi khác để kích
thích lòng tham dục, kiêu ngạo đầy tăm tối giữa thế gian. Ai còn lâm vào cái
xiềng xích tội lỗi ấy là người
rất đáng thương.
Nhưng nếu họ cứ
kiêu căng với tri thức hạn hẹp của họ thì họ phải chuốc lấy kết quả của luật
nhân quả mà Đức Chúa Trời đã ban ra.
Vậy, như thế nào mới gọi là điều
lành đúng nghĩa nhất? Lấy gì làm
tiêu chuẩn cho điều lành? Có phải lấy bụng mình mà suy ra chăng? Không
phải đâu! Vì bụng mình suy nghĩ rất ngu ngơ khờ khạo hoàn toàn chủ quan. Lấy
giáo lý của năm bảy chục ông giáo chủ nào đó để làm tiêu chuẩn chăng? Không
phải đâu! Vì chỉ cần giáo lý của một ông trong số đó cũng đã chứa đầy mâu thuẫn
rồi. Lấy quan điểm truyền thống ngàn năm của nhân loại để làm tiêu
chuẩn chăng? Không được
đâu. Vì suốt những ngàn năm nhân loại vẫn còn nhiều người đang đi trong u mê tăm tối khi chưa tin nhận Đức Chúa
trời là Cha Nhân Từ, là Đấng sáng tạo ra mình. Vậy căn cứ vào đâu để tìm thấy
điều lành đúng nghĩa nhất và thực tế nhất nếu không tin vào Đấng hằng hữu toàn
tri, toàn tại, toàn năng mà Kinh Thánh đã dạy?
Kinh Thánh cho
chúng ta biết rằng toàn thể vật chất trong thế gian đều vô thường, nhưng tâm linh con người vẫn mang tính trường tồn, vì đó là
một phần bổn tính của Đức Chúa Trời ban cho nhân loại. Nhân loại được Đức Chúa Trời
dựng nên với phẩm chất cao quý vô song, ấy là được mặc lấy hình ảnh của Đức Chúa Trời. Vì thế
con người có tự
do tuyệt đối để chọn điều lành hay chọn điều ác. Thật ra con người không sáng
tạo ra điều lành và điều ác, vì
điều lành và điều ác vốn đã hiện hữu trước
khi con người được dựng nên. Điều
lành từ trong Đức Chúa Trời, điều ác từ trong Satan. Đức Chúa Trời chưa tiêu diệt Satan,
vì Ngài cho loài người
có tự do chọn lựa giữa Ngài và Satan. Chúng ta chọn ai thì chúng ta mang lấy
kết quả của sự chọn lựa ấy. Dù ngày nay chúng ta có cả hai bản tính ác và thiện
không thể nào chối cãi được,
nhưng chúng ta
có tự do đi theo điều lành và điều ác và chịu trách nhiệm về sự chọn lựa của
mình.
Những điều ác
chúng ta làm hôm nay không có gì mới mẻ
cả. Những điều lành tương đối mà chúng ta
làm hôm nay cũng không có gì mới mẽ hết. Nhưng ai biết vận dụng Đức Tin để đi theo Đức Chúa
Trời thì được
Ngài dẫn dắt vào con đường
lành mới mẻ luôn luôn. Vì bổn tính nhân lành của Ngài là vô lượng và sáng tạo.
Chúng ta chỉ là con người
hạn hẹp. Những gì chúng ta có hôm nay
không do chúng ta
làm ra. Sau khi nhận được hồng ân cứu
rỗi, chúng ta mới được cứu ra khỏi điều ác của Satan và được Đức Chúa trời
tái sanh để mặc vào chúng ta bổn tánh thiện của Ngài; từ đó chúng ta mới
bắt đầu làm điều lành theo thánh ý của Ngài. Ai khước từ ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời ấy là người tự đặt mình vào
xiềng xích của Satan. Người
ấy có thể làm một vài điều lành theo nghĩa của thế gian để che đậy vô vàn điều ác của mình.
Họ có thể che mắt thế gian nhưng
không thể che mắt Đức Chúa Trời được.
Dù họ khước từ
Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời vẫn xét đoán họ. Họ giống như người trần truồng chạy
trốn ánh nắng dưới
bầu trời mùa hạ.
Đức Chúa Trời
công bình nhưng
đầy lòng thương xót. Ngài chờ đợi mỗi đời sống chúng ta quay trở về nhận ơn thương xót của Ngài. Ai
không muốn tự do trở về với Chúa ấy là người muốn tự do đi theo sự ràng buộc của Satan.
Đức Chúa Trời lấy làm vui mà ban phước
cho Ai sinh ra Đức Chúa Trời kẻ làm lành theo Lời Ngài như thế nào thì Ngài
cũng lấy làm vui mà trừng phạt kẻ đam mê làm theo điều ác của Satan như vậy (Phục truyền
28:63).
Có rất nhiều
điều ác do con người
làm ra, nhưng
họ đổ lỗi cho Đức Chúa Trời như
lòng tham dục, lòng hận
thù, lòng ganh
ghét, chiến tranh,
thù hận, kiêu ngạo...Khi con người gặp thiên tai hạn hán thì họ oán Đức Chúa
Trời, nhưng họ
tảng lờ như
không hề biết rằng từng giây từng phút thế giới vẫn sống, ăn, thở, thụ hưởng tất cả những gì
Ngài đã dựng nên.Đối với một thiểu số người nầy than
thở thiên tai hạn hán, đối với đa số người khác vẫn ham sống
vui tươi; đó
cũng là những đau khổ và hạnh phúc tạm thời mà cả thế gian cần có để học bài
học về hậu quả tội ác và phước lành
trong quyền phép và sự công bình
mà Đức Chúa Trời đã ban ra cho thế gian như Kinh Thánh đã rao báo. Điều lành trước tiên mà Đức Chúa
Trời muốn chúng ta làm là tìm kiếm Nước
Thiên Đàng và sự công bình của Ngài. Giống như một đứa con bất hiếu, nếu nó cứ tiếp
tục khoe khoang tính đạo đức giả
của nó trước mặt cha mẹ nó thì cha mẹ nó càng xem nó là
đứa con bất hiếu. Nhưng
nếu nó mở miệng nói với cha mình rằng con là đứa con đã từng làm cho cho mẹ
buồn lòng thì cha mẹ nó mới thấy đứa con mình bắt đầu có ý niệm về lòng hiếu
thảo. Bao lâu thế gian còn khoe khoang đạo đức tu hành theo các giáo lý “cao siêu”
của thế gian thì bấy lâu thế gian còn đi trong tối tăm. Nhưng bao lâu thế gian
quay lòng về với Đức Chúa Trời thì bấy lâu thế gian bắt đầu hướng về điều lành của
lẽ thật. Không thể so sánh Đức Chúa Trời với con người thọ tạo. Dù con người là vĩ nhân, là Phật, là Bồ Tát hay là gì đi
nữa thì họ vẫn loài thọ tạo. Họ được
sinh ra giữa thế gian như
chúng ta. Chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. Ngài dựng nên cả hoàn
vũ như Kinh
Thánh đã dạy trong sách êsai các đoạn 46,47, 48. Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất
đáng được tôn
thờ vì Ngài là Đức Chúa Trời.
Ngài phán : “Hãy nhớ lại những sự ngày xưa; vì ta là
Đức Chúa Trời, và chẳng có Chúa nào khác;
ta là Đức Chúa Trời, chẳng có ai
giống như ta. Ta đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói thừ thuở xưa
những sự chưa làm nên...” (êsai 46:9-10). Vì thế Đức Chúa Trời dạy chúng ta chỉ
thờ một mình Ngài mà thôi.
Nếu một người thật sự hướng lòng về điều
lành thì trước
hết người ấy
muốn nhận ra khuyết điểm của mình và sẵn sàng
tìm kiếm nguồn cội nhân lành cho đến bao giờ gặp được mới thôi. Đức
Thích Ca là một người
hết lòng tận tuỵ đi tìm điều lành. Ngài đã dấn thân trong lầm lạc
cũng vì lòng ước muốn tìm cho
ra chân lý. Dù Ngài đã tự nhận mình
là Phật đã thành, nhưng
Ngài cũng biết rằng mình là một người
không đủ khả năng cứu nhân loại ra khỏi tội lỗi. Ngài biết rằng giáo lý của
ngài chưa thể
nào trọn vẹn, nên Ngài đã nói : “Suốt 49
năm ta chưa giảng gì cả”. Cũng như
thế, Ngài dạy xong giáo lý Vô Ngã thì ngài cũng xác nhận cái Ngã là cái mà tội nhân muốn
tôn thờ nhất: “Thiên thưọng
thiên hạ duy Ngã độc tôn.” Vì ai tôn thờ cái Ngã mới thỏa mãn với lòng
kiêu ngạo đầy tăm tối của mình.
Ai muốn thoát
khỏi nguồn tội lỗi của Satan là người
sẵn sàng đem bản ngã tội lỗi của mình đặt xuống chân thập
tự giá của Đức Chúa Jesus Christ để
tiếp nhận Ơn Tha Thứ mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho họ. Con cái Chúa
chúng ta tránh tranh cãi với những người
cứng lòng, vì qua sự tranh cãi ấy, chúng
ta vô tình đem Chúa của mình ra so sánh với những con người thọ
tạo. Ngoài Đức Chúa Trời, chưa
có một con người thọ
tạo nào dám tự đặt mình vào địa
vị đáng được tôn thờ. Đức Thích Ca không dạy cho các phật
tử thờ Ngài. Nhưng
Đức Thích Ca vẫn bị họ thờ lạy. Khi con người khước
từ thờ lạy Đức Chúa Trời của họ thì họ cứ lầm lạc trong ý tưởng hư không và thờ lạy
loài thọ tạo cũng như
hình tượng do
tay họ làm ra. Những người
như thế mà
chúng ta mất công cãi lý với họ thì chỉ làm cho họ thêm vấp ngã mà thôi. Ai
muốn tìm hiểu Kinh Thánh và chân lý của sự sống thì có nhiều cơ hội để tiếp xúc
với con dân Chúa. Đức Chúa Trời luôn luôn
thấu biết lòng người.
Ngài không bao giờ bỏ sót những linh hồn
khát khao tìm kiếm chân lý. Ngài là Chân Lý, Đường Đi và Sự Sống, ai ở trong Ngài là người đó có ánh sáng
của sự sống, có bản tính nhân từ, có sự an vui hạnh phúc thiêng liêng ngay hôm
nay để làm bằng chứng về nước
thiên đàng đời đời của Đức Chúa Trời. Ai
sinh ra Đức Chúa Trời
Nguyễn Huệ Nhật