Barabbas
Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Lắm lúc Ba-ra-ba tự
hỏi tại sao mình ở lại Giê-ru-sa-lem, trong khi không có việc gì cần làm cả. Gã
đi lang thang trong thành phố không mục đích, cũng không để làm một việc gì.
Tuy nhiên, gã đoán biết rõ là trên núi, các đồng bọn đang lấy làm lạ vì gã còn
nấn ná ở đây mà chưa chịu về với chúng. Tại sao gã ở lại đây? Chính gã cũng
không biết nữa!
Ban đầu mụ to béo
tưởng rằng đó là vì mụ, nhưng chẳng bao lâu mụ biết là không phải như vậy. Mụ
có hơi bất mãn đôi chút, nhưng đàn ông thì bao giờ cũng bội bạc nếu ta không từ
chối gì với điều họ muốn. Dầu sao thì gã cũng ngủ với mụ, đó là điều khiến mụ
hài lòng. Thật là thích thú khi tìm được một gã “chỉ” như Ba-ra-ba, một người
mà mụ thích vuốt ve, mơn trớn. Và cái hay nơi Ba-ra-ba là gã không thuộc về mụ,
cũng không là của ai cả; người ta có thể tin chắc chắc như vậy. Gã không thuộc
về ai, cũng không tha thiết với ai hết. Gã luôn luôn vẫn thế. Hơn nữa mụ cũng
không cần biết là gã có thiết tha gì với mình không, và những lúc họ gần gũi
với nhau. Nhưng sau đó, có khi mụ lại cảm thấy buồn và khóc thầm một mình. Cái
đó cũng không hề làm phật lòng gã. Khóc có thể gây cho người ta một cảm tưởng
dễ chịu hơn. Mụ đã có nhiều kinh nghiệm trong đường tình, nên không thấy ghét
gã bất cứ vì lý do gì.
Thế tại sao gã cứ la
cà mãi ở Giê-ru-sa-lem. Mụ không thể nào khám phá ra nổi. Mụ cũng không biết là
gã làm gì suốt những ngày dài đăng đẳng đó. Gã không phải nhu nhược như những
đứa không ra gì vẫn đi lang thang ngoài đường phố. Gã là một người đã quen với
cuộc đời sóng gió đầy gian nguy. Đi quanh quẩn mà không làm gì cả không phải là
tánh gã chút nào.
Phải rồi, gã không còn
là gã nữa từ khi câu chuyện ấy xảy ra: từ khi đáng ra là gã phải bị đóng đinh.
Mụ tự nhủ hay là gã thấy nhột nhạt vì chính mình đã không bị đóng đinh. Trong
khi mụ nằm để tay lên cái bụng lớn của gã vào những giờ nóng bức nhất trong
ngày, có lần mụ đã phải phì cười chỉ vì cái ý nghĩ đó.
Chắc Ba-ra-ba cũng
không thể nào tránh khỏi việc thỉnh thoảng phải gặp các môn đệ của người bị
đóng đinh. Không ai dám quả quyết là gã cố ý muốn làm vậy, nhưng họ thì ở đâu
cũng có vài người, tại các công trường, ngoài đường phố, và nếu gã gặp họ, gã
sẵn sàng đứng lại để tán chuyện với họ, nêu ra những câu hỏi về giáo lý lạ lùng
vốn rất xa lạ đối với gã. “Các con hãy yêu mến lẫn nhau”…
Gã tránh công trường,
Đền thờ và các đường phố đẹp để thường lui tới các đường phố nhỏ của phần
thấp hơn trong thành phố phụ cận, nơi những người thợ tiểu công nghệ làm việc
trong các cửa hiệu của họ, nơi những kẻ mua đi bán lại mời khách mua hàng.
Trong số những người chất phát đó có rất nhiều người rất sùng đạo, và Ba-ra-ba
nhận thấy là họ ít đáng ghét hơn những người gã đã gặp dưới hành lang đền thờ.
Gã tìm biết được một
phần những quan niệm kỳ lạ của họ, nhưng thật là khó đi sâu vào đời sống riêng
tư để hiểu biết họ cho rõ – việc đó có lẽ là tại cách thức bày tỏ ý kiến rất
ngây ngô của họ. Họ tin chắc rằng Thầy họ đã từ kẻ chết sống lại và sắp cầm đầu
các đạo thiên binh của mình để trở lại thiết lập nước Ngài. Ai cũng bảo như
vậy, chắc người ta đã dạy họ như thế. Nhưng hỏi rằng người ấy có phải là con trời
không, thì tất cả đều không biết chắc. Một số bảo rằng nếu đúng thì thật là phi
thường, bởi vì họ đã nghe và thấy người ấy, phải, họ còn trò chuyện với người
ấy nữa. Một người trong đám họ đã từng khâu cho người ấy một đôi dép, đã đo ni
và vân vân.
Không, đó là một điều
rất khó quan niệm. Nhưng một số đông khác lại tuyên bố điều ấy là thật, và một
ngày kia người ấy sẽ ngồi giữa đám mây, trên ngai vàng bên cạnh Cha Ngài. Tuy
nhiên, trước hết thì cái thế giới bất toàn và đầy tội lỗi này phải tiêu tàn đi
đã.
Vậy những người chất
phát đó là ai?
Họ biết rất rõ là
Ba-ra-ba không tin họ và luôn luôn cẩn thận giữ mình đối với gã. Một số tỏ vẻ
khinh biệt gã ra mặt, và tất cả đều cho thấy là họ không ưa gì gã lắm. Ba-ra-ba
vốn đã quen với những thái độ như thế, nhưng điều lạ lùng là lần này, gã dường
như cảm thấy hơi khó chịu, điều không hề có trước đó. Những người đó luôn luôn
tỏ ra muốn lánh mặt gã, muốn khỏi gặp gã là hơn. Có lẽ vì gương mặt gã, vì vết
dao trên bộ râu hàm mà người ta không biết căn do, vì đôi mắt quá sâu mà người
ta không thể nào trông cho rõ ràng được. Ba-ra-ba biết hết những điều đó, nhưng
ý kiến của người khác thì ăn nhập gì với gã? Gã chẳng bao giờ chú ý đến điều
đó.
Từ trước đến nay, chưa
bao giờ gã cảm thấy khó chịu về việc ấy.
Những người kia liên
kết rất chặc chẽ với nhau trong đức tin chung của họ, và cẩn thận không để cho
một người nào không cùng có đức tin ấy lọt được vào bọn họ. Họ có các nhóm thân
hữu, các giáo đoàn để ăn uống chung với nhau như trong một đại gia đình. Việc
đó liên hệ đến giáo lý của họ, liên hệ đến câu “Các con hãy yêu mến lẫn
nhau” của họ. Nhưng họ có yêu mến một người không giống họ chăng. Thật là
khó biết được!
Ba-ra-ba không muốn
gia nhập các giáo đoàn của họ, không, chẳng đời nào. Chỉ nghĩ đến việc kết hợp
với kẻ khác như vậy cũng đủ làm chạm tự ái của gã rồi. Gã chỉ muốn gã là chính
gã, thế thôi.
Dầu vậy, gã vẫn đi tìm
họ.
Gã còn đi đến chỗ giả
vờ như muốn trở thành một người trong bọn họ … nếu gã có thể hiểu được cặn kẽ
tín ngưỡng của họ. Họ đáp là họ sẽ rất sung sướng và không muốn gì hơn là hết
sức để giải thích cho gã giáo lý của Thầy họ, nhưng thật ra thì dường như họ
không được vui lắm. Thật là ngô nghê. Họ tự trách là không cảm thấy một niềm
vui thật sự nào đối lại lòng sốt sắng của gã, và khi nghĩ rằng họ có thể được
thêm một tín đồ mới, điều mà theo lệ thường đã khiến họ sung sướng lắm. Tình
trạng ấy sẽ đưa đến đâu? Ba-ra-ba biết rõ lắm. Và gã đột nhiên đứng dậy rảo
bước bỏ đi, trong khi vết sẹo dưới con mắt đỏ lên như màu máu.
Thánh Kinh Báo
Tháng 12/1969 – Tháng 1-2/1970
(Còn tiếp)