Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Saturday, December 1, 2012

- Barabbas--5a


IMG_1024

Barabbas
Tác giả: Par Lagerkvist

Người dịch: Hướng Dương


Lắm lúc Ba-ra-ba tự hỏi tại sao mình ở lại Giê-ru-sa-lem, trong khi không có việc gì cần làm cả. Gã đi lang thang trong thành phố không mục đích, cũng không để làm một việc gì. Tuy nhiên, gã đoán biết rõ là trên núi, các đồng bọn đang lấy làm lạ vì gã còn nấn ná ở đây mà chưa chịu về với chúng. Tại sao gã ở lại đây? Chính gã cũng không biết nữa!


Ban đầu mụ to béo tưởng rằng đó là vì mụ, nhưng chẳng bao lâu mụ biết là không phải như vậy. Mụ có hơi bất mãn đôi chút, nhưng đàn ông thì bao giờ cũng bội bạc nếu ta không từ chối gì với điều họ muốn. Dầu sao thì gã cũng ngủ với mụ, đó là điều khiến mụ hài lòng. Thật là thích thú khi tìm được một gã “chỉ” như Ba-ra-ba, một người mà mụ thích vuốt ve, mơn trớn. Và cái hay nơi Ba-ra-ba là gã không thuộc về mụ, cũng không là của ai cả; người ta có thể tin chắc chắc như vậy. Gã không thuộc về ai, cũng không tha thiết với ai hết. Gã luôn luôn vẫn thế. Hơn nữa mụ cũng không cần biết là gã có thiết tha gì với mình không, và những lúc họ gần gũi với nhau. Nhưng sau đó, có khi mụ lại cảm thấy buồn và khóc thầm một mình. Cái đó cũng không hề làm phật lòng gã. Khóc có thể gây cho người ta một cảm tưởng dễ chịu hơn. Mụ đã có nhiều kinh nghiệm trong đường tình, nên không thấy ghét gã bất cứ vì lý do gì.

Thế tại sao gã cứ la cà mãi ở Giê-ru-sa-lem. Mụ không thể nào khám phá ra nổi. Mụ cũng không biết là gã làm gì suốt những ngày dài đăng đẳng đó. Gã không phải nhu nhược như những đứa không ra gì vẫn đi lang thang ngoài đường phố. Gã là một người đã quen với cuộc đời sóng gió đầy gian nguy. Đi quanh quẩn mà không làm gì cả không phải là tánh gã chút nào.
Phải rồi, gã không còn là gã nữa từ khi câu chuyện ấy xảy ra: từ khi đáng ra là gã phải bị đóng đinh. Mụ tự nhủ hay là gã thấy nhột nhạt vì chính mình đã không bị đóng đinh. Trong khi mụ nằm để tay lên cái bụng lớn của gã vào những giờ nóng bức nhất trong ngày, có lần mụ đã phải phì cười chỉ vì cái ý nghĩ đó.

Chắc Ba-ra-ba cũng không thể nào tránh khỏi việc thỉnh thoảng phải gặp các môn đệ của người bị đóng đinh. Không ai dám quả quyết là gã cố ý muốn làm vậy, nhưng họ thì ở đâu cũng có vài người, tại các công trường, ngoài đường phố, và nếu gã gặp họ, gã sẵn sàng đứng lại để tán chuyện với họ, nêu ra những câu hỏi về giáo lý lạ lùng vốn rất xa lạ đối với gã. “Các con hãy yêu mến lẫn nhau”

Gã tránh công trường, Đền thờ và các đường phố  đẹp để thường lui tới các đường phố nhỏ của phần thấp hơn trong thành phố phụ cận, nơi những người thợ tiểu công nghệ làm việc trong các cửa hiệu của họ, nơi những kẻ mua đi bán lại mời khách mua hàng. Trong số những người chất phát đó có rất nhiều người rất sùng đạo, và Ba-ra-ba nhận thấy là họ ít đáng ghét hơn những người gã đã gặp dưới hành lang đền thờ.
Gã tìm biết được một phần những quan niệm kỳ lạ của họ, nhưng thật là khó đi sâu vào đời sống riêng tư để hiểu biết họ cho rõ – việc đó có lẽ là tại cách thức bày tỏ ý kiến rất ngây ngô của họ. Họ tin chắc rằng Thầy họ đã từ kẻ chết sống lại và sắp cầm đầu các đạo thiên binh của mình để trở lại thiết lập nước Ngài. Ai cũng bảo như vậy, chắc người ta đã dạy họ như thế. Nhưng hỏi rằng người ấy có phải là con trời không, thì tất cả đều không biết chắc. Một số bảo rằng nếu đúng thì thật là phi thường, bởi vì họ đã nghe và thấy người ấy, phải, họ còn trò chuyện với người ấy nữa. Một người trong đám họ đã từng khâu cho người ấy một đôi dép, đã đo ni và vân vân.

Không, đó là một điều rất khó quan niệm. Nhưng một số đông khác lại tuyên bố điều ấy là thật, và một ngày kia người ấy sẽ ngồi giữa đám mây, trên ngai vàng bên cạnh Cha Ngài. Tuy nhiên, trước hết thì cái thế giới bất toàn và đầy tội lỗi này phải tiêu tàn đi đã.

Vậy những người chất phát đó là ai?
Họ biết rất rõ là Ba-ra-ba không tin họ và luôn luôn cẩn thận giữ mình đối với gã. Một số tỏ vẻ khinh biệt gã ra mặt, và tất cả đều cho thấy là họ không ưa gì gã lắm. Ba-ra-ba vốn đã quen với những thái độ như thế, nhưng điều lạ lùng là lần này, gã dường như cảm thấy hơi khó chịu, điều không hề có trước đó. Những người đó luôn luôn tỏ ra muốn lánh mặt gã, muốn khỏi gặp gã là hơn. Có lẽ vì gương mặt gã, vì vết dao trên bộ râu hàm mà người ta không biết căn do, vì đôi mắt quá sâu mà người ta không thể nào trông cho rõ ràng được. Ba-ra-ba biết hết những điều đó, nhưng ý kiến của người khác thì ăn nhập gì với gã? Gã chẳng bao giờ chú ý đến điều đó.

Từ trước đến nay, chưa bao giờ gã cảm thấy khó chịu về việc ấy.
Những người kia liên kết rất chặc chẽ với nhau trong đức tin chung của họ, và cẩn thận không để cho một người nào không cùng có đức tin ấy lọt được vào bọn họ. Họ có các nhóm thân hữu, các giáo đoàn để ăn uống chung với nhau như trong một đại gia đình. Việc đó liên hệ đến giáo lý của họ, liên hệ đến câu “Các con hãy yêu mến lẫn nhau” của họ. Nhưng họ có yêu mến một người không giống họ chăng. Thật là khó biết được!
Ba-ra-ba không muốn gia nhập các giáo đoàn của họ, không, chẳng đời nào. Chỉ nghĩ đến việc kết hợp với kẻ khác như vậy cũng đủ làm chạm tự ái của gã rồi. Gã chỉ muốn gã là chính gã, thế thôi.

Dầu vậy, gã vẫn đi tìm họ.
Gã còn đi đến chỗ giả vờ như muốn trở thành một người trong bọn họ … nếu gã có thể hiểu được cặn kẽ tín ngưỡng của họ. Họ đáp là họ sẽ rất sung sướng và không muốn gì hơn là hết sức để giải thích cho gã giáo lý của Thầy họ, nhưng thật ra thì dường như họ không được vui lắm. Thật là ngô nghê. Họ tự trách là không cảm thấy một niềm vui thật sự nào đối lại lòng sốt sắng của gã, và khi nghĩ rằng họ có thể được thêm một tín đồ mới, điều mà theo lệ thường đã khiến họ sung sướng lắm. Tình trạng ấy sẽ đưa đến đâu? Ba-ra-ba biết rõ lắm. Và gã đột nhiên đứng dậy rảo bước bỏ đi, trong khi vết sẹo dưới con mắt đỏ lên như màu máu.

Thánh Kinh Báo
Tháng 12/1969 – Tháng 1-2/1970
(Còn tiếp)