Vào khoảng đầu năm1920, Eric Liddell mà câu chuyện của anh được kể trong phim “những chiến xa bằng lửa” là một trong những lực sĩ nổi tiếng nhất của Scotland là một người chơi rugby cho trường đại học Glasgow và cho đội Scottish international team. Anh khiến những người ái mộ bị khích động bởi vận tốc của anh và khiến những đối thủ của anh phải kinh ngạc về cách chơi của anh. Nhưng chính trên sân chạy đua mà anh để lại dấu ấn còn mãi của anh như là một lực sĩ.
Người ta nói là sự hiện diện của Eric trên sân chạy đua lôi cuốn thêm 5000 khán giả nữa. Với đôi tay vung ra như một cái máy xoay gió, đầu ngửa ra về phía sau khi đến gần mức tới, anh luôn chiếm được giải trong những cuộc chạy đua. Anh yêu thích việc chạy đua, dầu vậy đó không phải là điều quan trọng nhất của anh.
Năm 1923, Eric có hai quyết định ảnh hưởng trên dòng đời của anh. Việc đầu tiên xãy ra vào đầu tháng ba khi một nhóm sinh viên ở trường đại học Glasgow nhờ anh nói về đức tin của mình trong Đấng Christ cho một nhóm những người thợ làm ở mỏ than ở một thành phố lân cận. Eric, người không bị giao động bởi 40.000 người ở vận động trường, cảm thấy run sợ khi nghĩ đến việc phải nói chuyện với 40 người trước công chúng. Khi anh chấp nhận đi giảng, anh có lòng tin cậy hoàn toàn là Chúa sẽ giúp đỡ anh.
Sự chọn lựa thứ hai xãy ra vào tháng 11, khi lịch để tranh giải Olympic vào mùa hè được công bố, cuộc chạy đua 100 mét, một cuộc chạy đua mà Eric chắc chắn dành phần thắng, được tổ chức vào Chủ Nhật. Eric lặng lẽ đi đến ban tổ chức thế vận hội Olympic và rút tên khỏi cuộc chạy đua, nói rằng: “Anh không thể chạy trong ngày mà Chúa đã biệt riêng ra cho sự thờ phượng và yên nghĩ”. Anh chấp nhận, thay vào đó tập luyện cho cuộc chạy đua 200 mét và 400 mét, dù anh không được coi là người có thể tranh giải trong những cuộc chạy đua này.
Vào tháng 7, ngày 11 năm 1924, tất cả những người dân Anh đều căng thẳng khi Eric đứng xếp hàng để chuẩn bị cho cuộc chạy đua 400 thước ở thế vận hội Olymics ở Paris. Hằng ngàn người lắng nghe chương trình truyền thanh trên radio, khi phát súng đầu tiên được bắn để khởi đầu cuộc chạy đua và cả vận động trường hò reo cổ vỏ.
Khi Eric băng qua lằn ranh tới 5 mét trước vận động viên người Mỹ, Horatio Fitch, sự chiến thắng của anh tạo nên một sự ngưỡng mộ sâu xa hơn cả việc anh đạt được huy chương vàng.
Một tuần lễ sau ở một bữa tiệc vinh danh Eric ở Edinburg, Lord Sands nhắc nhở những người có mặt ở đó là họ hiện diện trong bửa tiệc bởi vì “người thanh niên trẻ này đã đặt cả sự nghiệp chạy đua của anh trên bàn cân coi đó như là cát bụi so sánh với việc tôn trọng những nguyên tắc của anh”. Có những vấn đề trong cuộc đời quan trọng hơn thể thao và điều quan trọng hơn hết là sự trung thành với những nguyên tắc thuộc linh.
Sau một năm học thần học và nói chuyện ở những buổi họp mặt của những Cơ-Đốc-nhân ở khắp nước Anh. Eric đi sang Trung Hoa. Ở trường đại học Hoa-Anh ở Tientsin, Eric dạy về môn khoa học, và tổ chức những chương trình thể thao cho những đứa trẻ người Hoa, ở thành phố mà cha mẹ anh là những giáo sĩ đã sanh anh ra ở đó. Ở đây, anh kết hôn với Florence Mckenzie vào năm 1934. Với sự ra đời của Patricia và Heather, gia đình Liddell là một gia đình vui vẻ có 4 người. Những người bạn thừa nhận rằng chưa thấy ai hết lòng yêu thương nhau như Florence và Eric nhưng cuộc sống mà họ cóthay đổi khi Nhật xâm chiến miền Bắc Trung Hoa năm 1937.
Sự giao thông bị giới hạn, những người ngoại quốc bị khám xét ở những điểm kiểm soát và mỗi ngày tình hình càng bất ổn. Khi Hitler bắt đầu xâm chiếm Âu Châu, cái thòng lọng bị xiết lại ở Trung Hoa. Vào tháng 5, năm 1941 Eric gởi Patricia, Heather va Florence, lúc đó mang thai đứa con thứ ba của họ sang Canada để sống với cha mẹ củaFlorence. Anh hứa sẽ đoàn tụ với họ ngay khi có thể làm được điều đó. Nhưng cuộc tấn công ao Pearl Harbor thay đổi mọi sự.
Ở Trung Hoa, Nhật liệt kê những người thuộc về những quốc gia thù nghịch với họ như là kẽ thù của dân tộc và họ phải bị quản thúc tại nhà của họ. Trong vòng một năm, Eric và 1800 người khác thuộc mọi thành phần trong xã hội được chuyển đến một trại giam dân sự trước là một trung tâm truyền giáo Presbyterian ở thành phố Weihsien. Những người lính Nhật ngăn chặn mọi cố gắng để đào thóat, trong khi viên chỉ huy trại giam cung cấp cho họ một số lương thực căn bản để họ tự nuôi sống. Sự liên hệ với thế giới bề ngoài bị giới hạn trong 25 chữ được gởi đi một tháng 1 lần qua hội Hồng Thập Tự.
Những người bị giam họp thành những ban ngành, giao công việc cho mỗi người và cố gắng để sống còn. Eric chú ý đến những thiếu niên ở trong trại, đa số là những học sinh từ những trường nội trú dành cho con của các giáo sĩ. Eric dạy chúng về khoa học, làm một quyển sách 100 trang về hoá học từ trí nhớ của anh và dạy những học sinh làm những thí nghiệm .Với bất cứ dụng cụ nào về thể thao mà Eric có được, anh to chức những trò chơi và thường làm trọng tài và người phân xử những vụ tranh cãi. Và anh luôn sẳn sàng để lắng nghe những ai cần có người để tâm sự hay cần an ủi.
Có thể liên hệ được với những giáo sĩ và những nhà kinh doanh sống trong trại, sự quan tâm chân thành của Eric cho những người khác là một nhịp cầu phá tan sự nghi ngờ thường gây chia rẽ giữa những nhóm người có giá trị khác nhau.
Những lời từ một trong những bài thánh ca mà anh yêu thích hướng dẫn cho hành động của anh.
“Đức-Thánh-Linh xin ở với con, con xin vâng phục”.
Và với những lời nâng đỡ và chữa lành, xin Chúa bày tỏ chính mình Ngài qua cuộc đời con. Và với những hành động can đảm và nhu mì, xin cho con bày tỏ Đấng Christ, Đấng cứu chuộc con.”
Đối với những người đau ốm và già cả. Eric mang những thung nước đến phòng của họ. Vào mùa đông anh mang đến than bột để họ làm thành những thỏi than cho lò của họ. Anh ao ước được ở với Florence, Patricia, Heather, và Maureen, đứa con gái mà anh chưa bao giờ thấy mặt, và bởi vì điều này không thể thực hiện được, anh quyết tâm là anh sẽ bày tỏ tình yêu của anh đối với Chúa và đối với gia đình mình bằng cách phục vụ những người có nhu cầu.
Vào đầu năm 1945, sau nhiều tuần bị nhức đầu nặng, anh được chuyển đến bệnh viện của trại, bác sĩ chẩn đoán anh bị một khối u ở não, nhưng không làm gì được cho anh. Khi anh mất vào tháng 2 ngày 21 vào lúc 43 tuổi, dường như ánh sáng đã không còn ở trong toàn thể trại giam. Những người đàn ông khóc một cách công khai và những em thiếu niên buồn bã tụ họp để nói về người đã dẫn đưa chúng đến với Chúa và khiến hy vọng của chúng vươn lên vượt khỏi những hàng rào kẽm gai.
Một trong những người ở cùng phòng với Eric,một thương gia người Anh nói một cách đơn giản,” anh ấy sống một cuộc đời tốt đẹp hơn cả sự giảng dạy của anh.” Không phải là một người có tài hùng biện trên toà giảng, anh đã bày tỏ đức tin của mình nơi Chúa-Jesus Christ, qua tình yêu thương. Lord Sands đã nói rất hay ở bữa tiệc ở Paris chúc mừng Erich về sự thành công của anh ở Paris,” đó là thánh Phao-Lô, người may trại ở thành Tạt-sơ đã xem những cuộc tranh tài Olympic những thế kỹ trước và viết: “tất cả những người ở trong cuộc chạy thi nơi trường đua, đều chạy nhưng chỉ có một người được thưởng, vậy hãy chạy cách nào cho được thưởng.( I Côrinhtô 9:24)
Thuý Anh_TNPA chuyển ngữ theo “ Bold and Meele” by David Meeasland trích trong Decision July and August 2012