Giỏ Đầy Thứ Ba: Tha Thứ Và Lại Tha Thứ
Cuộc Tình Bí Mật Của Chồng Tôi
Cây Thông Con Bật Gốc
Đứa Con Gái Chôn Cất Trong Lòng Tôi .
Ngôi Nhà Nguyện Không Còn Nữa
Không Còn Chỗ Đứng
Cuộc Tình Bí Mật Của Chồng Tôi
"Bây giờ, hãy lựa chọn, hoặc tôi hoặc
người tên Giê-xu." Một ngày nọ, chồng tôi từ Trường trở về nhà sớm và yêu
cầu tôi phải chọn lựa giữa ông và Chúa Giê-xu.
Tôi đã đến Seoul để đoàn tụ với chồng tôi sau ba năm sống trong tình yêu thương
và sự thông công nhân ái với Mục sư Myung và các tín hữu trong Hội Thánh mà tôi
không thể nào quên.
Chồng tôi đã cùng với chú tôi lập Trường Đại học Kunkook. Hai người cùng nhau
làm việc cật lực để tìm kiếm và huấn luyện nhân tài cho đất nước Đại Hàn.
Sau khi lên Seoul, tôi đi nhóm ở Hội Thánh Giám lý Pildong. Lúc ấy, nhà thờ đang
được xây mới lại. Vậy là tôi bảo chồng tôi, lúc ấy đang điều hành một công ty
cung cấp gỗ, hãy dâng những loại gỗ tốt nhất cho công việc xây cất nhà thờ. Tôi
nỗ lực giúp đỡ và phục vụ Hội Thánh cùng các vị Mục sư và những Sinh viên Thần đạo
với tất cả những vật liệu cùng tiền bạc mà tôi có thể dâng.
Mỗi Chúa Nhật, chồng tôi muốn tôi đi dã ngoại với ông, nhưng tôi luôn từ chối
và thay vào đó tôi đi đến nhà thờ để phục vụ Chúa.
Lối sống này kéo dài được ba năm, và chồng tôi buộc tôi phải đi đến quyết định
cuối cùng. "Cô không bao giờ đi chơi với tôi vào những ngày Chúa Nhật. Còn
những ngày lễ, khi bà con họ hàng đến nhà ta chơi đánh bài thì cô không bao giờ
tham gia. Cô đã làm tôi vô cùng mắc cở trước mặt các chị em và họ hàng của tôi.
Tôi đã hết sức chịu đựng rồi. Bây giờ, cô phải chọn giữa tôi và người tên
Giê-xu kia. Tôi không muốn cô tiếp tục đến nhà thờ nữa. Hoặc là tôi sẽ cưới vợ
bé để có thể cùng tôi chia sẻ những thú vui của mình."
Tôi nhìn chồng tôi, tim tôi tan vỡ khi biết rằng mình sẽ phải đi đến quyết định
này. Chồng tôi thở dài và chờ đợi câu trả lời của tôi. Ông là một người chồng đặc
biệt đối với tôi. Ông có tài, có giáo dục và danh vọng. Ông là một người cha đáng
kính của bốn đứa con của tôi và là một người chồng mà tôi phải nhờ cậy cho đến
suốt đời. Ông là một người chồng không chỗ trách được. Tôi nghĩ thầm, tôi chưa
bao giờ tận hưởng tình thương thật sự mà ông dành cho tôi vì chiến tranh và ly
tán. Chẳng lẽ cuộc sống gia đình tôi đến đây là chấm dứt sao?
Khi chồng tôi đẩy tôi vào chỗ phải chọn lựa, tôi đã nghĩ tôi không thể bỏ người
chồng đã chu cấp cho tôi trong ngần ấy năm. Và chính lúc ấy, ngay trước mắt tôi
hiện ra rõ ràng một gương mặt. Đó chính là Ngài, Đấng đã tuôn huyết vì tôi.
Ai đã yêu thương, bồng ẵm tôi những lúc tôi bước đi trong trũng bóng chết?
Ai đã luôn cận kề bên tôi bất chấp thời gian và không gian? Không ai khác ngoại
trừ Ngài.
Ai đã gánh lấy mọi án phạt, chịu đau đớn trăm bề; ai đã bị khinh bạc, bị sỉ nhục
vì cớ tội lỗi của tôi?
Làm sao tôi có thể nói lời đoạn tuyệt với Ngài được? Tôi cố gắng tự chủ và mở
miệng nói cách chậm rãi và thận trọng, "Anh yêu, em yêu anh. Anh là một người
chồng tuyệt vời và là một người cha đáng kính đối với các con, nhưng em không
thể quên được Đấng đã ban cho em sự sống và tình yêu thương thật."
"Dù khó khăn đến đâu, em cũng sẽ phục tùng và nghe lời anh với tư cách là
một người vợ và người mẹ của bốn đứa con. Em sẽ cố gắng hết sức. Nhưng xin anh
hãy hiểu cho em và thay đổi ý kiến của anh."
"Nếu thế thì anh muốn em hãy cùng anh tận hưởng những thú vui đời này. Anh
muốn em đi chơi với anh và các con vào ngày Chúa Nhật."
"Em xin anh, anh bảo em làm chuyện gì cũng được, nhưng chỉ trong sáu ngày,
còn ngày Chúa Nhật em phải đến nhà thờ. Em không thể bỏ Chúa được."
Chồng tôi nghe những lời tôi nói. Và dường như ông đã có quyết định cho riêng
mình.
"Thế à? Vậy nếu đó là điều em muốn, thì em cứ làm theo cách của mình. Còn
anh sẽ theo cách của anh để hưởng thụ cuộc sống trên thế giới này."
Chồng tôi cảm thấy như ông đã bị phản bội. Ông rời khỏi nhà trong tiếng thở
dài.
Khi nhìn thấy ông rời khỏi nhà, tôi ngã quỵ xuống đất như là trời sập vậy.
Lúc đó, tôi hai mươi tám tuổi. Tôi phục vụ chồng tôi trong mười bảy năm nữa cho
đến khi ông qua đời trong cô đơn và đau đớn. Một trong những từng trải đau lòng
nhất của tôi là khi chồng tôi bảo tôi chuẩn bị bữa trưa ngoài trời để ông có thể
đi chơi cùng với một người bạn khác phái vào ngày Chúa Nhật. Hầu như mỗi Chúa
Nhật, tôi đều dậy sớm để chuẩn bị đồ ăn trưa cho ông và người phụ nữ kia. Tôi
thường nhìn họ đi khỏi nhà trong lúc nước mắt cứ trào ra. Sau đó, tôi dẫn các
con đến nhà thờ.
Tôi ngửa trông nơi Chúa, chờ đợi một cách hạ mình và nhẫn nại. Tôi tin rằng chồng
tôi sẽ nhận biết Chúa khi ông thấy tấm lòng chân thật của tôi. Vì thế tôi vâng
phục trong yên lặng.
Một ngày kia, chú tôi gọi điện hỏi, "Chú nghe có tin đồn về chồng cháu, điều
đó có phải là sự thật không?"
"Không đâu chú ơi. Điều đó hoàn toàn không đúng. Chắc có ai đó ganh tị nên
dựng chuyện nói xấu vì ảnh sẽ là người nối nghiệp chú. Xin hãy tin cháu. Cháu
là người biết rõ mọi chuyện."
"Vì cháu đã nói vậy nên chú sẽ xem đây chỉ là tin đồn mà thôi." Rồi
ông cúp máy.
Trở về thời điểm cách đây năm mươi năm, nếu một nhà mô phạm có vợ bé thì ông ta
phải từ chức vì tai tiếng trong xã hội. Sau sự việc ấy, có vài câu hỏi được đặt
ra nhưng tôi phủ nhận tất cả mọi lời cáo buộc và nhất định bảo vệ chồng tôi.
Sau này, khi biết chuyện, chồng tôi đã cảm ơn tôi. Tôi nói với ông rằng ấy là
chính Chúa đã làm điều đó. Tôi sẽ chờ đợi và vượt qua mọi nỗi đau để giữ cho
gia đình được êm ấm và nuôi dạy tốt các con tôi. Có nhiều lúc chồng tôi không về
nhà, lúc ấy tôi nhìn chiếc giường trống trải và chỉ biết quỳ gối xuống trước Chúa.
Và cứ mỗi lần như thế, Ngài khỏa lấp tâm hồn cô quạnh của tôi bằng sự bình an
và sự vỗ về của Ngài. Sự can đảm Ngài ban cho tôi đã giúp tôi tiếp tục bước đi
và tha thứ cho chồng tôi một lần nữa.
Chính sự tha thứ vô biên mà Ngài đã đặt trong tâm hồn tôi đã khiến cho người vợ
bé của chồng tôi có thể có mặt tại tang lễ của ông khi ông qua đời. Việc người
vợ bé xuất hiện trước công chúng trong lễ tang của chồng mình chưa hề được nghe
thấy bao giờ. Tôi có một sự sắp xếp đặc biệt để bà có thể đến nhà bày tỏ lòng
thương tiếc trước cái chết của chồng tôi. Hôm trước khi qua đời vì bệnh cao huyết
áp và tiểu đường, ông nhờ tôi chuẩn bị một ngân phiếu có ghi một số tiền đáng kể.
Tôi đã đưa tấm ngân phiếu cho người phụ nữ ấy. Bà có hai con trai, và số tiền ấy
được dùng để trang trải học phí cho hai đứa bé. Không phải tôi mà chính Chúa đã
khiến tôi có thể tha thứ.
Ngoài ra, tôi còn sắp xếp để tên hai con trai của bà ấy được khắc chung với tên
các con tôi trên bia mộ chồng tôi. Tôi vẫn muốn dành cho bà ấy phần đất trống
bên cạnh mộ chồng tôi khi bà qua đời. Tôi biết sống không có chồng, người mà bà
có thể nhờ cậy, thật là chật vật biết bao. Cuộc sống hôn nhân của bà là một cuộc
sống hoàn toàn trong bóng tối, không hề có chút ánh sáng. Tình yêu chớm nở của
bà thật ngắn ngủi vì chẳng bao lâu, bà đã mất người chồng của mình. Chắc chắn
bà cảm thấy cô đơn và trống vắng lắm.
Sự khoan dung trong trái tim tôi đã giúp tôi có thể bỏ qua cuộc tình lén lút của
chồng tôi. Nhưng nó không xuất phát từ tôi mà chỉ từ Ngài mà thôi. Dù chồng tôi
không hiểu được tấm lòng của tôi nhưng tôi vẫn yêu thương và kính trọng ông.
Ông yêu đất nước và con người Đại Hàn. Ông đã cống hiến cuộc đời mình cho cho
việc giáo dục trí tuệ của những con người trẻ tuổi hầu có thể dẫn dắt tương lai
của nước Đại Hàn. Thậm chí trước khi chết, ông cũng không đi nhà thờ với tôi.
Tôi nghĩ rằng ông không đến nhà thờ vì mặc cảm về gia đình thứ hai của mình và
vì ông bị dày vò bởi nỗi ân hận đã làm tổn thương tôi. Tuy vậy, ông đã hỗ trợ
tôi rất nhiều trong những công tác của nhà thờ như giúp đỡ người nghèo cùng nhiều
việc khác nữa.
Nhiều lần tôi suy nghĩ về chồng tôi và tự hỏi không biết trên thế giới có bao
nhiêu gia đình đang trải qua những gì mà tôi đã từng trải.
Thậm chí tôi không thể nhớ đã bao nhiêu lần tôi cầu nguyện trong nước mắt để chồng
tôi được cứu. Tôi đã cầu khẩn với Chúa không thôi. Duy chỉ mình Ngài thấu hiểu
tấm lòng của tôi.
Cây Thông Con Bật Gốc
Lại một cây thông con bị bứng gốc.
Tôi đang ở trên núi gần ngôi nhà nguyện với đứa con trên lưng. Trời mưa tầm tã,
tôi chỉ có một tấm nylon che vừa con tôi và đầu tôi. Tôi ghì chặt cây thông con
và khóc lớn với Chúa.
"Con không thể làm được. Con đã cố gắng tha thứ cho ông ấy nhưng không thể.
Xin Ngài giúp con. Xin hãy giúp con."
Người tôi ướt đẫm mưa và nước mắt. Tôi vật lộn với cây thông bé nhỏ. Cuôi cùng
cây thông bật gốc và tôi ngã vào vũng sình bên đồi.
Tôi không thể nào tha thứ cho ông ta. Tôi đã quyết định hàng trăm lần trong đầu
là sẽ tha thứ cho ông ta. Nhưng ngay lúc tôi nghe thấy giọng nói của ông thì
lòng căm hờn lại nổi lên trong tôi. Cuối cùng, tôi đã chạy lên ngọn núi cầu
nguyện và khẩn cầu thâu đêm ở đó. Nhưng sự căm ghét vẫn tồn tại trong lòng tôi.
Tôi bỏ cuộc và quay về nhà với con tim trống rỗng và một thân xác rã rời.
Ngày hôm sau, chồng tôi bảo tôi chuẩn bị cơm tối cho một người khách, Giáo sư
D. H. Lee. Tôi cay đắng với cái tên đó. Ông ta đã làm tôi xấu hổ trước mặt chồng
tôi khi ông gọi tôi là "người đàn bà ngu xuẩn, hóa điên vì Chúa
Giê-xu." Ông bảo chồng tôi bỏ tôi và nhiều lần giới thiệu cho chồng tôi những
người phụ nữ khác. Ông ta là một con người độc ác và đã đem đến cho tôi không
biết bao nhiêu là đau khổ.
Tôi bước vào phòng sau khi làm xong bữa tối trong nhà bếp. Làm thế nào tôi có
thể tha thứ cho một kẻ thù như người đàn ông này. Tôi đã cố gắng nhưng vẫn
không thể. Tôi thật sự cần Chúa. Tôi cầu xin Ngài giúp tôi tha thứ cho ông ta.
Chuông cửa reo và tôi mĩm cười một cách gắng gượng khi ông Lee bước vào. Tôi mời
ông vào với một giọng điệu khác hẳn.
"Xin mời ông vào đây. Tôi đã chuẩn bị một bữa tối thịnh soạn. Chúc ông
ngon miệng và xin cứ ở lại đây chừng nào ông muốn." Tôi không còn là tôi nữa.
Tôi véo vào tay mình và nhận thấy tôi hoàn toàn tỉnh táo nhưng đấy không phải
là tôi. Tất cả mọi sự thù hận còn chất chứa trong lòng tôi mới vài phút trước đây
bỗng tan biến hết. Tôi thấy mình đang bày tỏ cho người đàn ông này một sự quan
tâm trìu mến cùng sự ấm áp thật sự từ trong nơi sâu thẳm của trái tim tôi.
Dáng điệu vụng về của ông từ từ tiến vào phòng khách. Tôi đi theo ông và từ đằng
sau tôi nhìn thấy chiếc áo sơ-mi nhăn nhúm của ông. Vợ ông đã qua đời một vài năm
trước đó. Hiện ông sống với các con. Tôi muốn an ủi ông ta. Tôi phục vụ bữa tối
với một tấm lòng chân thành và yêu thương. Ông nán lại khá lâu với chồng tôi.
Lúc ông sắp sửa ra về, tôi tặng ông một món ăn đặc biệt để ông mang về.
Khuya hôm đó, tôi cứ trằn trọc mãi vì những điều đã xảy đến với tôi. Tôi không
hiểu việc gì đã xảy ra. Làm sao việc ấy có thể xảy ra được. Tôi cứ nằm trở qua
trở lại trên chiếc gối của mình. Chính lúc ấy, tôi nghe giọng nói ngọt ngào của
Ngài.
"Này con yêu dấu, chẳng phải con đã xin Ta giúp đỡ những gì con không thể
tự mình làm được đó sao? Ta há chẳng phán rằng hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp
sao? Con không biết rằng Ta đã ban cho con tấm lòng của Ta để con thay mặt cho
Ta mà cư xử với mọi người sao?"
"Vâng, đúng vậy, thưa Chúa." Tôi bật dậy trong niềm phấn chấn. Ngài
biết rõ những nan đề của tôi, và Ngài đã thực hiện công tác tuyệt vời của Ngài
trong tôi. Không những Ngài đã chữa lành chân của tôi mà còn hàn gắn con tim bị
thương tổn của tôi và đã biến nó thành một con tim kỳ diệu. Ngài đã thấy tôi
khép kín cửa lòng mình và Ngài đã đến để ban cho tôi một tấm lòng tuyệt vời. Giờ
đây, tôi đã có thể nếm trải được lòng thương xót của Ngài. Lòng khoan dung của
con người thật là ít ỏi. Một khi lòng tự ái của họ bị tổn thương thì ngọn lửa căm
ghét sẽ thổi phừng lên và điều đó chỉ làm xuất hiện thêm nhiều kẻ thù mà thôi.
Thậm chí trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa những
người bạn và những người láng giềng, con người cũng không thể đập vỡ được bức tường
ganh ghét ấy. Nhưng Ngài đã phán đó không phải là đường lối đúng đắn.
Ngài giúp tất cả những ai đưa tay xin Ngài cứu giúp và Ngài ban cho họ một tấm
lòng đầy tình thương và sự thương xót để có thể hạ bức tường ghen ghét và than
vãn xuống. Lòng yêu thương và vị tha của Ngài đã biến rễ đắng trở nên rễ ngọt.
Chính Ngài đã gieo hạt giống hạnh phúc vào lòng của con người.
Từ hôm ấy trở đi, ông Lee đã trở nên nhu mì hơn. Một ngày nọ, ông hỏi tôi,
"Chẳng lẽ cô không ghét tôi sao? Làm sao cô có thể thân thiện với tôi như
thế được?"
Tôi mỉm cười với ông và giới thiệu về Chúa cho ông và tặng cho ông quyển Kinh
Thánh bìa da để ông đọc. Một thời gian sau, tôi nghe chồng tôi nói đứa con út của
ông Lee đang nằm trong bệnh viện. Thằng bé phải nhập viện vì bệnh lao và thấp
khớp. Mỗi ngày, tôi đều đến bệnh viện thăm cháu. Tôi tắm rửa, thay đồ cho nó và
đem cho nó trái cây như mẹ nó đã từng làm.
Từ giờ phút ấy trở đi, ông Lee đã gặp được Đấng mà tôi đã gặp năm tôi hai mươi
ba tuổi. Ông đã ăn năn thống hối với một tấm lòng tan vỡ khi ông tiếp nhận
Chúa. Ngày ông gặp Chúa, ông đã đến gặp tôi và xin tôi tha thứ cho ông không biết
bao nhiêu lần. Ông thuật lại cho tôi những gì mà đứa con út đã nói với ông.
"Ba ơi, con thấy hình ảnh của mẹ con trong cô ấy. Con thì nặng, nhưng cô ấy
đã bồng con lên, gội đầu và rửa mặt cho con. Con nghĩ chắc chắn đó là mẹ của
con. Sau ba, cô ấy là người con thương yêu nhất. Con đã cảm ơn cô ấy rồi, nhưng
tại sao ba lại không?" Từ lúc ấy, Giáo sư Lee trở thành một người đàn ông
hạnh phúc. Và ông trở nên một trong những người bạn thân thiết nhất của chồng
tôi.
Đứa Con Gái Chôn Trong Lòng Tôi
"Ông nói sao? Kyungsook, con gái tôi
không sống được tới ngày mai sao?"
Tôi khóc với vị Bác sĩ đến thăm viếng nhà tôi. Ông nói vi trùng bạch hầu đã lan
đến tim của con tôi. Đã quá trễ. Ông nói nếu được phát hiện hai ba ngày trước
thì đã có thể cứu sống đứa bé. Tôi quỵ xuống sàn nhà và khóc như một đứa trẻ.
Một vài ngày trước đó, Kyungsook đi học về và kêu rằng cháu bị sốt. Tôi đem
cháu đến một Bác sĩ Nhi khoa ở khu lân cận. Bác sĩ nói cháu chỉ bị cảm lạnh.
Ông bảo tôi đừng lo lắng và ông kê đơn thuốc cảm lạnh cho cháu. Nhưng sau hai
ngày uống thuốc, cháu không những không hạ sốt mà lại còn trở nên khó thở.
Chúng tôi gọi điện cho một Bác sĩ chuyên khoa và mời ông đến nhà. Và ông kết luận
vi trùng bạch hầu đã lan đến tim của cháu. Nhưng vì không được phát hiện ở giai
đoạn đầu nên bây giờ đã quá trễ để có thể cứu cháu. Điều đó hoàn toàn không chấp
nhận được. Chúng tôi có tiền. Thuốc thang có sẵn. Chính việc chẩn đoán sai trật
của vị Bác sĩ Nhi khoa ấy đã đưa đến cái chết của đứa con gái đầu lòng của tôi.
Kyungsook là một đứa bé đặc biệt. Cháu có nhiều tài. Cháu chơi được đàn dương cầm
và đoạt giải quốc gia trong một cuộc thi vẽ. Trong lớp, cháu luôn được xếp hạng
danh dự. Cháu chỉ mới học lớp hai ở trường Tiểu học. Tôi yêu cháu nhất nhà.
Một Giáo viên Trường Chúa Nhật đang theo học tại Đại Chủng Viện của Hội Thánh
Giám Lý được nghỉ phép dài hạn vì bị bệnh đã đến thăm tôi. Cô đã nằm mơ thấy
Kyungsook mặc áo đầm trắng đang đi tới một nơi nào đó. Kyungsook nắm tay cô và
trò chuyện với cô. Rồi cháu nhắm mắt lại và chìm vào một giấc ngủ dài.
Kyungsook đã ra đi một cách đẹp đẽ và lặng lẽ.
Ngày đám tang của cháu, tôi trở về từ nơi mai táng và ngã vật ra giường, mọi tấm
rèm cửa hạ xuống. Tại sao bi kịch này lại xảy đến cho tôi? Tôi đã làm điều gì
sai trái trước mặt Ngài? Tôi cảm thấy con gái yêu dấu của tôi đang dang rộng đôi
tay và chạy đến với tôi. Tôi không tài nào chịu đựng nỗi cơn đau đang dằn xé
tâm can mình. Mọi sự thống khổ, mọi nỗi ưu phiền trong cuộc đời của tôi không
thể nào sánh được với nỗi đau mất cháu Kyungsook. Tôi căm ghét vị Bác sĩ đã chẩn
đoán sai bệnh trạng của con tôi.
Tối hôm ấy, lúc tôi đã rơi vào nỗi tuyệt vọng hoàn toàn, thậm chí không còn cử động
được ngón tay của mình thì Ngài đã đến thăm tôi. Đêm ấy, trời rất tối và dường
như đó là một đêm dài vô tận. Ngài đã đến với tôi bằng tình yêu không biến đổi
của Ngài, "Con yêu dấu của Ta, không lâu nữa con sẽ gặp lại cháu và ở với
cháu mãi mãi." Khi Ngài đang nói chuyện với tôi bằng giọng nói thân thương
trìu mến của Ngài, tôi nghe tiếng hát của muôn vàn thiên sứ rằng, "Ôi
thiên đàng tuyệt đẹp, lòng tôi tràn ngập niềm hân hoan. Thời tiết buốt giá của
mùa đông sẽ biến nên những ngày xuân mát dịu. Chúa đã sửa soạn một chỗ, và đó sẽ
là nơi ở vĩnh cửu của tôi."
Bài hát tuyệt vời của các thiên sứ đến với đôi tai và tâm hồn tôi, nó lấp đầy
trong tôi sự bình an thiên thượng mà không gì có thể so sánh được. Nỗi ưu phiền
tức thì trở nên niềm vui. Sự đau đớn dày vò phút chốc tiêu biến và tôi cảm nhận
sự an ủi kỳ diệu đến từ trên cao. Tiếng thở dài trở nên bài hát ngợi khen, bóng
tối sự chết lập tức bị xua tan bởi ánh sáng của sự sống. Vâng đúng rồi, lời
Chúa phán, "Vì chưng của cải ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó," đã
trở nên sống động và mang đến cho tôi một nguồn an ủi vô biên.
Sau khi chôn cất đứa con gái chín tuổi của tôi, tôi lại trở thành một người đàn
bà hạnh phúc. Một vài ngày sau, toàn bộ gia đình và họ hàng của tôi họp lại để
bàn về việc đệ đơn kiện vị Bác sĩ đã chẩn đoán sai gây nên cái chết của con gái
tôi. Sắc mặt ai nấy đều rất giận dữ. Tôi lấy lại niềm hạnh phúc của mình và mở
miệng nói với họ, "Nếu chúng ta khởi tố ông ta và đưa ông ta vào tù, liệu điều
đó có làm Kyungsook sống lại chăng? Ông ta đã phải bị dằn vặt suốt đời vì việc
này rồi. Hơn nữa, vợ và con ông ta đâu có lỗi gì mà phải mang lấy mặc cảm tội lỗi
ấy. Nếu chúng ta không thể đem cho họ sự an ủi, thì xin đừng làm cho họ đau đớn
thêm. Hãy để chuyện này lại phía sau và quên nó đi."
Nếu có ai đó muốn truy tố vụ này, thì người đó phải là tôi, với tư cách là mẹ của
cháu. Nhưng là mẹ của cháu, tôi đã nài xin họ đừng đệ đơn kiện. Không ai bàn
cãi thêm với sự nài xin chân thành của tôi. Ai có thể thương Kyungsook hơn
chính mẹ của cháu chứ?
Tất cả sự tha thứ ấy không phải từ tôi mà ra nhưng đến từ Đấng đã ban cho tôi
quyền năng tha thứ lạ lùng và sức lực mới mẻ để bươn tới phía trước.
Từ tận đáy lòng mình, tôi dâng lời cảm tạ lên Đấng đã giúp tôi có khả năng thực
hiện những việc này.
Ngôi Nhà Nguyện Không Còn Nữa
"Bà Yoo ơi, xin hãy về đây mau. Mọi
người chúng tôi đang ở trong tình trạng nguy cấp." Đó là giọng nói của một
bà lớn tuổi điện thoại từ nước Đại Hàn bên kia Thái Bình Dương. Tôi có thể nhận
ra giọng nói của bà ngay lập tức. Đó là một bà cụ già ở Agok-ri, một làng nhỏ ở
Đại Hàn. Tôi đã giật mình tỉnh thức vào lúc nửa đêm sau khi nhận cú điện đó.
Tôi không thể tin được những điều đã nghe trên điện thoại. Chẳng lẽ tấm lòng của
người đàn ông ấy đã trở nên nghèo ngặt và không còn đáng tin cậy nữa sao?
Cách đây khoảng bốn mươi năm, có một Mục sư trẻ đến với tôi. Ông nói ông muốn cầu
nguyện cho đất nước Đại Hàn và mong muốn có một nhà nguyện hoạt động theo kiểu
tự túc tự dưỡng. Ông ta đầy những ước vọng và năng lực. Điều đó khiến tôi cảm
phục lắm. Ông đề xuất việc xây dựng một nhà nguyện và một nông trang, nơi những
vị Mục sư về hưu có thể đến cư ngụ và cầu nguyện suốt những năm tháng còn lại của
đời họ.
Tôi bị thu hút bởi ý tưởng ấy và đồng tình với đề xuất của ông. Tôi để dành tiền
và mua đất ở Yougin từng chút một. Rốt cuộc là vùng đất mua được gồm có một ngọn
núi nhỏ, một mảnh đất nông trang nhân tạo và một dòng suối (sau này thành bể
lai cá giống).
Chúng tôi thu hoạch lúa và nhiều loại rau trong mảnh đất nông trang rộng lớn. Tất
cả mọi người trong thị trấn đều tham gia vào việc xây dựng ngôi nhà nguyện. Thậm
chí những đứa bé cũng góp phần bằng việc chuyển đá và dọn dẹp. Mọi người đều hiệp
một lòng trong đức tin để dự phần vào công tác này. Vị Mục sư trẻ rao giảng Tin
Lành và cầu nguyện ngày và đêm khắp nơi trong làng. Tôi đã từ Seoul đến thăm
làng mỗi tháng một lần và cùng tham dự những bữa tiệc yêu thương lẫn những phước
hạnh thuộc linh. Thật là một dự án đầy vinh hiển. Chúng tôi hết thảy đều tạ ơn
Ngài. Những dân làng có tâm hồn thật đẹp. Khi tôi di cư sang Mỹ năm năm sau
ngày chồng tôi qua đời, họ đã cùng khóc với tôi. Chúng tôi hẹn gặp nhau trên
thiên đàng.
Thế mà giờ đây, ngôi nhà nguyện trông thật xấu xí. Ngôi nhà nhỏ bị nứt toạt ra,
còn tòa giảng, nơi dùng để cầu nguyện cho quốc gia thì bị đổ vỡ. Làm sao người
ta có thể làm những việc như thế được? Tôi có thể hình dung ra những người dân
vô tội ở Agok-ri. Tôi là người duy nhất có thể giải quyết vấn đề. Vì thế, tôi
quyết định trở lại Đại Hàn.
Khi tôi đến nơi, tôi thấy đúng như những điều tôi đã nghe trên điện thoại. Tôi
thấy sự căm ghét hiện ra trên khuôn mặt của họ hơn là niềm vui và sự hạnh phúc.
Tôi gặp riêng vị Mục sư trẻ và nghe ông ta kể lại đầu đuôi sự việc. Tôi bảo ông
nên rời khỏi làng.
“Vấn đề đang vượt khỏi tầm kiểm soát. Họ không tin cậy ông vì ông đã làm tổn thương
họ. Tôi muốn ông rời khỏi làng với một mảnh đất nào đó. Hãy bán mảnh đất ấy đi
và dựng một nhà thờ mới ở một làng khác.”
Mục sư lắng nghe và đáp, “Tôi sẽ làm theo những điều bà nói.” Và ông rời khỏi
làng. Tôi cảm ơn ông ta vì đã hợp tác với tôi để giải quyết vấn đề rắc rối này.
Tôi ở lại qua đêm với dân làng, tôi an ủi họ và cầu nguyện cho họ.
Nhưng ngày hôm sau, vị Mục sư đó đến gặp tôi. Ông nói, “Bà Yoo ạ, bây giờ mọi
chuyện đã ổn rồi. Giấy tờ đã được giải quyết và ghi vô sổ bộ xong. Xin bà đừng
dính dáng vào việc này và xin hãy lìa khỏi thị trấn này đi.”
Tôi không thể tin vào tai mình. Sự phản bội này là gì đây? Làm sao ông ta có thể
nói như thế? Người đàn ông này không còn là một tôi tớ Chúa nữa. Ông đã thay đổi
và trở thành một con người có tấm lòng độc ác. Ông đã khởi đầu với một mục đích
đúng đắn cho Chúa nhưng cuối cùng đã chọn đường lối tham lam của Ma quỷ.
Đức Chúa Trời đã đem tôi trở về Đại Hàn vì cớ ông ta và cho ông có một cơ hội để
ăn năn nhưng ông đã chọn con đường dẫn tới sự hủy hoại. Ông đã từng tràn trề năng
lực và khao khát phục vụ Chúa. Ông đã từng rao giảng Tin Lành cho ba lễ trong một
ngày. Ông vui sướng vì được làm việc và đổ mồ hôi vì sự vinh hiển của Chúa.
Điều gì đã khiến ông trở nên mù quáng đến thế? Chẳng lẽ ân điển cứu chuộc của
Ngài đã bị đem ra đổi chác bằng sự đam mê của xác thịt và lòng tham của mắt?
Tôi sụp xuống sàn nhà và ngửa trông nơi Chúa. Bà cụ gọi điện cho tôi vào lúc nửa
đêm đứng cạnh tôi. Bà cũng đang khóc, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt nhăn
nheo của bà. Khi tôi nhìn thấy khuôn mặt cháy nắng và đôi bàn tay thô ráp vì
công việc đồng án của bà, lòng tôi lại càng quặn thắt hơn nữa.
Từ lúc tôi đi Mỹ, hàng ngày vào lúc bình minh, có một số dân làng đến nhà nguyện
để cầu nguyện với Chúa. Họ rất yêu mến Chúa. Từng viên gạch xây nhà thờ là bằng
chứng cho tình yêu chân thật và mồ hôi nước mắt của họ đổ ra vì cớ Chúa. Nhưng
giờ đây, tội lỗi của một người đã đem đến cho họ lòng hận thù và sự tuyệt vọng.
Đây chính là trái đắng sinh ra từ tội lỗi độc hại.
Tôi rời Agok-ri mà lòng trống không và tuyệt vọng vô cùng. Tôi bước đi trên con
đường làng; ngọn núi, nông trang, dòng suối, những hàng cây, trời xanh và bầu
không khí trong trẻo tất cả vẫn y nguyên. Chỉ có một điều thay đổi, đó là tấm
lòng của vị Mục sư ấy.
Tôi còn nhớ như in bốn mùa hết sức đặc biệt và xinh đẹp. Mùa xuân với tiếng suối
chảy róc rách lúc tuyết tan, mùa hè với tiếng ve kêu ra rả, tiếng dế kêu trong
những đêm mùa thu khuya khoắc, và tiếng tuyết rơi lặng lẽ vào mùa đông.
Trong những buổi thông công thâu đêm của chúng tôi, chúng tôi nói về ân điển dư
dật và tình yêu vô đối của Chúa, và ca tụng Ngài bằng những bài hát chất ngất
niềm vui xuất phát từ tấm lòng chân thành của chúng tôi.
Tôi lấy khăn tay lau nước mắt khi đi ngang những ruộng lúa trên đường ra khỏi
làng và tự hứa rằng, “Cho đến chết tôi cũng sẽ không trở lại nơi này nữa.”
Tôi trở về Los Angeles với một vết sẹo hằn sâu tiềm ẩn trong lòng. Trong căn hộ
nhỏ của mình, tôi chỉ biết cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho vị Mục sư không biết
suy xét ấy và an ủi dân làng Agok-ri cùng con tim tan vỡ của tôi. Chẳng mấy chốc,
một dòng bình an đã tràn ngập tâm hồn tôi. Thần linh Ngài đến và ôm lấy đôi vai
tôi một cách vô cùng êm dịu.
Không Còn Chỗ Đứng
"Thưa Mục sư, ông không thể buộc ông ấy
từ chức. Ông ấy là một một Mục sư trẻ tuổi. Vì tương lai ông ấy, hãy yêu cầu
ông ấy tự từ chức vì lý do cá nhân."
Trong nhà thờ là hơn năm trăm thuộc viên chính thức của Hội Thánh đang trong
tâm trạng căng thẳng. Một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi giơ tay và đứng dậy phát
biểu như thế. Bầu không khí im lặng bao trùm cả phòng nhóm.
Tôi rời Hội Thánh Giám lý Pildong và đến nhóm ở một Hội Thánh lớn ở Seoul. Tôi đã
làm hết sức mình để trung tín phục vụ Chúa và giúp đỡ các Mục sư. Tôi đặc biệt
thân thiết với vị Mục sư Quản Nhiệm và giúp đỡ cho gia đình ông về mặt tài
chính bằng cách này hay cách khác.
Một ngày nọ, một thử thách lớn xảy đến với Hội Thánh. Người vợ trẻ tuổi của vị
Mục sư phụ tá bị ngộ độc khí carbondioxide. Bà không thể làm việc nhà nên Hội
Thánh sắp xếp để một thiếu nữ đến giúp bà.
Mấy hôm sau, lúc cô gái chuẩn bị ra về thì ông Mục sư cũng vừa đi thăm viếng một
gia đình tín hữu về đến. Ông ngỏ lời cám ơn cô gái và vỗ lưng cô. Cô gái xoay
người lại và vô tình, tay của vị Mục sư chạm vào ngực của cô. Không biết bằng
cách nào mà việc này lại trở thành một vấn đề nghiêm trọng được đem ra bàn luận
trong cuộc họp của các tín hữu. Họ đồng ý cách chức ông.
Nhưng tôi tin tưởng vị Mục sư trẻ này. Bản thân ông ấy cũng là dân tị nạn từ miền
Bắc và đã học ở Trường Thần Học trải qua những năm chiến tranh và mọi sự kham
khổ. Dù ông nghèo nhưng ông thỏa lòng với cuộc sống giản dị và trong sạch của
mình. Trong mắt tôi, ông là người đáng kính về nhiều mặt.
Rõ ràng là có một số người vì lòng đố kỵ đã tung tin đồn này để gieo rắc tiếng
xấu. Và vấn đề này đã được đem ra xem xét tại cuộc họp của Hội Đồng Hội Thánh
bao gồm ba mươi Trưởng lão và hơn năm trăm thuộc viên chính thức của Hội Thánh.
Khi buổi họp đang sắp đi đến chỗ kết thúc với sự nhất trí là vị Mục sư Phụ tá
phải bị cách chức, theo như vị Mục sư Quản Nhiệm đã khẳng định. Ngay lúc đó có
một giọng nói rất rõ ràng lọt vào tai tôi và hỏi rằng,
"Con cũng tin như vậy à?"
"Không phải thế đâu, ông ấy chỉ là nạn nhân."
"Thế thì, hãy đứng dậy."
Tôi giơ tay phải xin phát biểu và đứng dậy, thậm chí tôi chưa biết gì về điều ấy.
Cả Hội Thánh xao động và mọi người đổ dồn sự chú ý của họ vào tôi. Tôi biết đó
là ý muốn của Chúa. Tôi mở miệng nói cách dạn dĩ. "Chính ở đây, tôi đã được
dạy phải tha thứ và khỏa lấp lỗi lầm của người khác. Đó là đường lối của Chúa
và đó là đường lối đúng đắn. Mục sư Phụ tá không hề cố ý chạm vào ngực của cô
gái, đó chỉ là một sự tình cờ. Nếu buộc phải cách chức ông ấy theo nguyên tắc của
Hội Thánh thì hãy bảo ông ấy từ chức vì lý do cá nhân chứ không phải vì Hội
Thánh ép buộc. Làm như thế, ít ra ông ấy cũng có thể từ giã các tín hữu trong Hội
Thánh."
Vị Mục sư Quản Nhiệm hạ cặp mắt lạnh lùng của mình xuống tòa giảng nhưng tôi
không thể nào rút lời được. Nếu tôi biết điều phải mà lại vì số đông mà thỏa hiệp
thì tôi cũng sai lầm giống như họ. Tôi sẽ giống như muối mất mặn. Tôi cảm nhận được
sự tức giận thổi bùng lên trong lòng mình, nhưng đó không phải là cơn giận của
tôi mà là cơn giận của Chúa. Ngài thấy vị quan tòa bất công tự xem mình là công
bình. Ông ta đứng ra xét đoán người khác trong khi chính mình là kẻ giả hình.
Người ta đem đến cho Ngài một người đàn bà bị buộc tội ngoại tình và chuẩn bị
hành quyết bà bằng cách ném đá. Nhưng Ngài đã phán với những người ấy rằng,
"Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhất ném đá vào người."
Khi họ nghe những lời này, họ bị chính lương tâm mình cáo trách và từng người một
bỏ đi. Ngài phán với người đàn bà đang run rẫy vì sợ hãi, "Này bà kia, Ta
không định tội ngươi. Hãy đi, và đừng phạm tội nữa."
Đúng rồi, tôi đã nghe giọng nói phán những lời nầy. Chính Đấng Thánh khiết
không muốn kết án những tội nhân nhưng muốn tha thứ cho họ. Lẽ nào chúng ta
thánh khiết hơn Ngài sao? Chúng ta cũng là những tội nhân được tha thứ nhờ ân điển
của Ngài. Đoán xét người khác là hành động của lòng tự cao và sự vô ơn đối với
ân điển cứu chuộc của Ngài. Đó là bài học mà Ngài đã dạy cho tôi.
Nhưng ý tưởng tha thứ bởi ân điển của Ngài không được Hội Thánh đồng tình và vị
Mục sư trẻ đã bị Hội Thánh cách chức (dứt phép thông công.) Tôi cũng phải rời
khỏi Hội Thánh trước những ánh mắt lạnh lùng và sự căm ghét đổ dồn về phía
mình. Từ sau sự việc ấy, trong nhà tôi nảy sinh ra nhiều nan đề mới. Tôi đã nhận
được nhiều món quà do người ta gởi đến biếu chồng tôi. Và tôi đem hầu hết những
món quà ấy đến nhà Mục sư hoặc văn phòng của nhà thờ. Thậm chí chồng tôi còn
nói đùa tại sao lại không đem luôn những chai rượu whisky đến đó. Tôi đã toàn
tâm toàn ý tận hiến cho Hội Thánh ngày và đêm. Giờ đây, bằng cách nào tôi làm
cho ông ấy hiểu lý do tôi phải rời khỏi Hội
Thánh đây?
Một hôm, lúc đang dùng bữa tối, tôi hỏi chồng tôi, "Anh yêu, nếu em bị bệnh
nặng và đang ở giai đoạn cuối thì anh có giúp chữa lành cho em không?"
"Dĩ nhiên rồi, anh sẽ giúp em chữa bệnh bất kể chi phí là bao nhiêu."
"Vậy thì hãy giúp cho mơ ước của em trở thành hiện thực như thể anh đang
giúp em thoát khỏi căn bệnh ấy vậy."
"Được rồi, hãy nói anh nghe mơ ước của em xem anh có thể làm gì được
không."
"Xin hãy xây cho em một ngôi nhà thờ."
Chồng tôi là một người lanh trí và ông đọc được những suy nghĩ của tôi.
"Anh nghĩ anh có thể giúp em xây một nhà thờ mới. Anh luôn nghĩ đến sự hy
sinh của em, việc em nuôi dưỡng con cái và lo toan công việc nhà và anh muốn
làm một điều gì đó cho em."
Đó là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của ngôi nhà thờ nằm trên đồi Buam-dong,
nhà thờ "Samae" (Ba tình thương.)
Nhà thờ có diện tích 4,300 bộ vuông với 12,000 bộ vuông khuôn viên, trong đó có
1,000 bộ vuông dành cho tư thất Mục sư. Tôi cung hiến ngôi đền thờ này cho Chúa
vào tháng Năm, 1966. Tôi mời một Mục sư nổi tiếng đến lo cho Hội Thánh và cầu
nguyện cho sự tăng trưởng của Hội Thánh.
Một ngày kia, Mục sư đến gặp tôi và đưa đơn xin từ chức với lý do là tín hữu
trong Hội Thánh nghe theo tôi và kính trọng tôi hơn ông ấy. Ông không thể dắt dẫn
tín hữu, ngoài ra ông còn chỉ ra một số bất tiện trong công tác quản trị Hội
Thánh. Vì thế, ông quyết định từ chức. Ai đã gieo hạt giống của sự tối tăm này?
Bấy giờ, tôi mới nhận ra có đôi lần, Mục sư đã tránh mặt tôi. Tôi quyết định
không hỏi ông bất cứ điều gì cả. Tôi chỉ cầu hỏi Chúa trước cây thập tự và ngửa
trông nơi Ngài. Tôi không thể để ông ấy ra đi. Khi Hội Thánh được hoàn tất, nó đã
được cung hiến cho Chúa chứ không phải tôi. Nếu tôi trở thành trung tâm của Hội
Thánh thì tôi nên đi khỏi đây. Ngài đã dạy tôi, "Chớ tranh luận vì quyền lợi
của con." Tôi phải theo ý muốn của Ngài hơn là ý của tôi.
“Tôi sẽ đi khỏi đây, còn Mục sư hãy ở lại chăn dắt bầy chiên của Chúa.” Khi tôi
đi xuống đồi, bỏ lại phía sau ngôi nhà thờ, nước mắt tôi cứ trào ra. Ngôi nhà
thờ này là phần thưởng của chồng tôi cho tôi. Tôi nghĩ Chúa đã ban cho tôi món
quà đó. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ Hội Thánh tại đó cho đến khi tôi qua đời.
Và đó là lời cam kết của tôi lúc cung hiến đền thờ, chỉ cách đó chưa đầy hai năm.
Nhà của chúng tôi ở phía sau Nhà Xanh (tương tự như Toà Bạch Ốc ở Mỹ) và nhà thờ
thì nằm bên kia đường. Nhà thờ ở rất gần nhà của tôi nhưng tôi không bao giờ đặt
chân đến đó nữa. Tôi đi một con đường khác để tránh gặp mặt các tín hữu ở đó.
Nhiều lần tôi quyết đinh trở lại nhà thờ nhưng tôi không muốn đem đến sự hiểu lầm
cho bất cứ ai. Tôi đã không ghé lại nhà thờ ấy trong suốt ba mươi năm.
Năm vừa qua (1998), tôi trở về Đại Hàn và tôi đến thăm nhà thờ, lần đầu tiên kể
từ lúc tôi ra đi; bởi vì tôi có cảm giác đây sẽ là lần viếng thăm cuối cùng trước
khi tôi chết.
Có một lần chồng tôi hỏi, “Nhà thờ thế nào hả em? Không có vấn đề gì chứ?” Và
tôi không thể nói dối ông.
“Em không đi nhà thờ ấy nữa.”
“Sao? Em đã nói nếu anh xây nhà thờ cho em thì em sẽ ở đó cho đến khi chết kia
mà. Có phải không?” Ông rất đỗi ngạc nhiên vì tôi đã bỏ nhà thờ một cách quá dễ
dàng như vậy.
“Anh biết không, Hội Thánh sẽ không được tăng trưởng nếu như người đầu tiên xây
dựng nó cứ ở đó. Vì thế, người xây dựng nhà thờ không thể ở lại nhà thờ quá
lâu.”
“Thế à? Hội Thánh có nguyên tắc kể cũng lạ! Dầu sao đi nữa, nhà thờ cũng là nơi
nhóm họp cho những người lạ.” Ông đã giúp tôi tránh đi sâu vào cuộc nói chuyện ấy.
Kể từ lúc đó, chồng tôi không bao giờ hỏi tôi về nhà thờ Samae nữa.
Tha thứ ! “Xin Cha hãy tha thứ cho họ vì họ không biết mình đang làm gì.” Chúa
Giê-xu đã cầu xin Cha Ngài tha thứ cho những người lên án Ngài. Ngài dạy dỗ và
bày tỏ sự tha thứ bảy mươi lần bảy của mình. Ngài dạy những kẻ theo Ngài trở
nên thánh khiết và làm cho người khác hòa thuận.
Nếu không có điều này, bạn sẽ không thể thấy mặt Đức Chúa Trời. Bằng quyền năng
của Ngài, Ngài đã bày tỏ chân lý của Ngài trong đời sống tôi. Tôi đã đi theo
Ngài và Ngài đã nắm tay tôi trong sự an bình. Bằng nhiều cách sâu rộng hơn, tôi
có được đặc quyền làm một người đàn bà hạnh phúc.