Lời Kinh Thánh
Wednesday, September 26, 2012
Sự Sát Sanh
Tết đến, vào những ngày đầu năm mới, để có lễ ra mắt ông bà trong
mùng ba Tết, từ sáng sớm người ta đã chuẩn bị gà chéo cánh khắp nơi
nhang đèn nghi ngút đặng cúng làm lễ ra mắt tại gia. Dĩ nhiên ngày này
cả nước Việt Nam có biết bao con gà bị sát sanh làm lễ vật, do phong tục
cổ truyền này có từ nghìn xưa nào ai ngăn cấm được! Giới luật đạo Phật đã có hơn hai ngàn
năm lâu như thế cũng không thể bác bỏ, dù là gia đình Phật tử phát xuất từ sự thờ cúng tổ
tiên, thế mà đều “bó tay”. Vậy thử hỏi giới cấm này có thực hành được chăng hay chỉ tuân
hành trong giới tăng ni? Vì tôi chỉ thấy các chùa Bắc Tông tu sỹ chấp trường chay và số ít
Phật tử chấp hành theo. Dù sao thì sự cấm sát sanh là một giới luật đáng cho chúng ta nêu
lên xem có sự hữu ích và tác hại chi trong đời sống trường chay.
Trong giới luật Phật giáo: Sát sanh là giới cấm đầu tiên cho Phật tử, vì sát sanh
xem là trọng tội hơn hết, nó vượt mức đến độ đồng với tội sát nhân. Triết thuyết này do
quan điểm luân hồi giữa loài người và loài thú luân phiên nhau đi đầu thai nhiều đời nhiều
kiếp, vì con người mắc tội khi chết bị đọa địa ngục rồi đi tái sanh kiếp khác làm súc sanh ngạ
quỷ, và từ súc sanh ngạ quỷ đầu thai làm người luân chuyển mãi, khó thoát khỏi nghiệp
chướng trầm luân. Vì thế sinh mạng giữa người và thú xem là đồng đẳng như nhau. Do giới
cấm sát sanh Phật tử quá sợ hãi phải ăn chay trường khổ hạnh, rồi kế đó phát sinh ra sự
phóng sanh cầu phước.
Giáo chủ Phật giáo Gotama với tam tịnh nhục: Vào thời nguyên thủy, Đức Phật
có thọ thực trường chay khổ hạnh không? Khi ngài dẫn thập đại đệ tử đi khất thực khắp
nước Ấn Độ thế nào? Đúng là lúc thái tử Gotama từ bỏ ngôi vị vợ con, cắt ái ly gia trốn vào
rừng đi tìm chân lý giải thoát khổ sanh, lão, bệnh, tử. Ngài đã thực hành phương pháp khổ
hạnh. Khi thấy thất bại trong sự tu luyện ở vị thầy đầu tiên, Phật bỏ đi tự thực hành khổ
hạnh một cách phi phàm đến mức kiệt sức ngất xỉu ở vệ đường. Lúc ấy có cô gái chăn chiên
dâng cho Ngài bát sữa tươi. Sau khi dùng sữa Ngài phục hồi sức khỏe, tinh thần sảng khoái
minh mẫn và đêm đó Phật giác ngộ chánh đẳng giác đắc lục thông. Câu nói “có thực mới vực
được đạo” là thế. Từ đó về sau đức Phật xem sự khổ hạnh là tự mình làm khổ mình, nên
không còn chủ trương khổ hạnh nữa và dạy đệ tử khi đi khất thực phải là người dễ nuôi. Tỳ
kheo không nên đòi hỏi món này ăn được, món kia không ăn được. Hễ ai đặt bát cho vật
thực gì không câu nệ dù là thịt cá, bánh trái, rau quả gì cũng được chẳng nên chấp, vì Phật
bảo: sống chẳng phải để ăn, mà cần có đủ vật thực để sống đặng tu hành. Từ đó chư tăng
và Phật tử đều ăn mặn chỉ thọ thực không sái giờ. Đây xem là tôn chỉ của giáo chủ Phật giáo
thời bấy giờ.
Trong Đại tạng kinh nguyên thủy nói về tam tịnh nhục như sau: Vì có nhiều người hỏi
Đức Phật sao ăn thịt cá được mà cấm sát sanh? Lúc đó ngài có đặt ra ba điều về việc dùng
thịt sạch:
1/ - Không thấy giết con vật đó làm thịt đặt bát chư tăng
2/ - Không nghi giết con vật đó vì mình
3/ - Không nghe giết là tiếng kêu la của con vật khi đang làm thịt.
Nói tắt là không: thấy, nghi, nghe giết thì đó là thịt sạch. Các chưtăng dùng không
có tội gọi là “tam tịnh nhục”.
Xã hội văn minh ngày nay việc sát sanh không còn thành vấn đề nữa, vì có máy móc
là lò giết mỗ tự động không cần người ta sát sanh, sản xuất thực phẩm theo nhu cầu ẩm
thực rất thích hợp với sự thọ thực tam tịnh nhục của đức Phật vậy. Ngoài ra có nhiều đạo
cấm ăn một số thực phẩm như thịt bò. Họ còn bôi trát phân bò lên đầu và mặt để tỏ lòng
tôn kính, vì họ thờ bò. Hay như việc cấm tăng ni ăn tỏi trong tiểu bộ kinh Trưởng Lão ni kệ.
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Phật giáo có tranh luận về vấn đề sát sanh là: nếu không
có người ăn thì chẳng có kẻ giết, vì sát sanh là tội trực tiếp còn người ăn là tội gián tiếp. Bởi
cớ đó Phật giáo chia thành hai hệ phái:
- Hệ phái Bắc Tông, còn gọi là Đại thừa chấp trường chay.
- Hệ phái Nam Tông nguyên thủy, còn gọi là Tiểu thừa dùng tam tịnh nhục.
Sự chấp trường chay của hệ phái Bắc Tông ở Việt Nam: Hệ phái Bắc Tông còn
gọi là Đại thừa chấp trường chay nói lên sự giữ giới trong sạch. Chẳng biết ở Ấn độ có ăn
chay trường như ở hệ phái này không. Vì quá chú trọng đến phẩm hạnh tu trì, lấy cái ăn
thánh hóa sự siêu phàm thoát tục. Nếu đặt trọng tâm vào các thực phẩm rau quả nhiều thì
rất tốt cho sức khỏe, song việc dùng trường chay khổ hạnh đi đến sự tác hại là điều không
nên. Vì có người bạn của tôi tu trường chay bị tuột calci trầm trọng đến nỗi không cứu được,
nếu vẫn tiếp tục ăn chay, nên bạn tôi khắc phục bằng cách chuyển hệ qua hệ phái Nam
Tông nguyên thủy, tu cho hợp tình hợp lý, để có đủ sức khỏe mới mong đạt kết quả tốt vì
cần có thân tâm an lạc.
Nhưng giới cấm sát sanh của hệ phái Bắc Tông không thể giữ trọn được là khi họ đạp
phải côn trùng và hàng ngày dùng rau quả có nhiều sâu bọ bị chết, hoặc trong tương chao
có nhiều vi khuẩn cả trong nước uống có biết bao là vi sinh vật, đến việc tiêu trừ muỗi,
chuột, gián, để phòng dịch. Họ biết mình không sao giữ được giới cấm này nên lo sợ, phải
đọc một câu thần chú để xóa tội và nguyện cho các con vật đó siêu sinh tịnh độ. Nhưng đức
Phật đã bảo ngài không phải là vị thần có quyền tha tội hoặc ban phước cho ai cả. Vậy Đấng
xóa tội đó là ai? Các bạn đã biết rằng chỉ có Đấng Tạo Hóa Đức Chúa Trời có quyền ấy mà
thôi. Vì Đấng ấy nắm giữ sinh mệnh và số phận con người, sao ta không nhận biết để thờ
phượng Ngài?
Cơ đốc giáo không chú tâm nhiều đến hành động ăn thịt thú vật hay ăn rau. Rô-ma
14:1-2 chép:
“Hãy bằng lòng tiếp lấy kẻ kém đức tin, chớ cãi lẫy về sự nghi ngờ. Người nầy tin có
thể ăn được cả mọi thứ; người kia là kẻ yếu đuối, chỉ ăn rau mà thôi. Người ăn chớ
khinh dể kẻ không ăn; và người không ăn chớ xét đoán kẻ ăn, vì Đức Chúa Trời đã
tiếp lấy người”.
Cơ Đốc Giáo cho rằng Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên vạn vật để nuôi loài người.
Còn Phật Giáo tôn trọng mạng sống của loài thú mà không biết tôn trọng Đấng dựng nên vũ
trụ và nhân loại. Đây là nền tảng của nhiều sai lầm khác kèm theo. Trong khi giới cấm sát
sanh của Phật Giáo thì không ai giữ được, dù Đức Phật cũng không giữ được, vì nấu nước,
nấu cơm, luộc rau, uống nước đều sát hại hằng trăm ngàn sinh vật.
Về trường chay có chắc là lòng họ không mong cầu thèm muốn vật thực như thịt, cá,
tôm? Vậy họ làm ra ảnh tượng cho những món ăn chay là: thịt quay chay, tôm kho tàu
chay, cá cơm chiên dòn chay, phở bò chay, v.v. có hương vị giống y như thật. Đầy dẫy
những hình ảnh ăn chay như thế nói lên điều thầm kín trong ước muốn có món ăn đích thực
như vậy! Người cháu tôi kể lại có lần đi chùa, dự lễ xong rồi dùng cơm chay. Khi nó vào lấy
tương thì thấy có một cục thịt ngâm trong đó. Khi ăn xong ra về lòng buồn bực xốn xang cứ
nghĩ đến việc chay trường khổ hạnh ép xác chi mà dối lòng như thế.
Lại nữa mâu thuẩn của giới cấm sát sanh là tỏ ra từ bi đối với loài vật, nhưng lại
khuyến khích tu sĩ tự thiêu vì mục đích và quyền lợi riêng thành ra phạm tội sát nhân mà
không thương xót đồng đạo của mình.
Chúng ta biết rằng tu không phải do thức ăn chay được thành chánh quả vì thực
phẩm để nuôi mạng sống cho bản thân mình, chắng đem đến sự ích lợi cho tha nhân sao gọi
là được phước? Các Phật tử đo lường việc tu cao thấp thường hỏi ăn chay được bao lâu rồi,
có nghĩa là tu được mấy năm rồi? Hoặc khi đắc thành sở nguyện một điều gì người ta thường
van vái là sẽ ăn chay một tháng, một năm, v.v. để trả lễ. Nếu xem việc ăn chay là tu hành,
là phước đức thì thử hỏi các con trâu, bò và những loài ăn cỏ suốt đời thì thành Phật hết cả
sao?
Hệ phái Nam Tông với tam tịnh nhục: Nam Tông nguyên thủy còn gọi là Tiểu
thừa. Cho đến ngày nay họ vẫn còn chấp hành theo tôn chỉ của Đức Phật về sự thọ thực tam
tịnh nhục. Sự khác biệt ở họ với Bắc Tông là can đảm chấp nhận điều chê trách về ăn mặn
với danh hiệu Tiểu thừa, song họ đã rất tự hào vì không lấy cái ăn làm cốt lõi vung bồi phẩm
hạnh, thánh hóa đời sống tu hành để khỏi mang tiếng là giả hình. (Ngoài ra, Tiểu Thừa của
Nam Tông còn khác với Bắc Tông về nghi thức, quần áo và giáo lý nữa.)
Sự phóng sanh: Từ giới cấm sát sanh khiến Phật tử phóng sanh thú vật để mong
cầu quả báo tốt là đời sống họ tránh được cảnh cá chậu chim lồng nghĩa là tránh được tù tội
giam cầm để có một đời sống tự do vui vẽ (theo tôi nghĩ nếu họ không làm điều phạm pháp
thì cũng tránh được tội ấy vậy).
Vào ngày rằm Phật tử thường dặn mối trước là đem đến bán cho họ từ 100 đến 500
con cóc nhái vì chim cá thời buổi này không đủ ăn, lại giá đắt hơn nhiều. Thế là người bán về
ruộng vườn săn lùng tìm bắt cho đủ số rồi đem ra những chùa ở thành phố bán cho các Phật
tử ấy. Người nguyện phóng sanh tạo phước này mới tìm nơi vắng vẻ để thả, như công viên
mé nước. Khi thả ra lẽ tự nhiên nữa số con cóc nhái bị chết hoặc thương tật, một số vì không
phải chốn ruộng vườn là môi trường hợp với cách sống của chúng nên đã gây ô nhiễm không
ít.
Thử hỏi công việc làm phước này có hữu ích cho vật hoặc người chăng? Nếu không có
người dặn mua thì các con vật đó đâu chịu cảnh tương tàn như vậy. Cái họ nghĩ là phước đã
trở thành tội rất sai lầm các bạn ạ. Cũng như cho mình từ bi đối với loài thú mà lại sát nhân
đối với người bằng cách kêu gọi thúc dục tu sĩ đồng đạo mình tự thiêu vì quyền lợi chính trị
hoặc giáo pháp gì đó, chỉ là nước cờ thế trận người đời chủ trương. Tự thiêu như thế rất mâu
thuẩn với sự yểm thế của nhà Phật. Hậu quả là họ bị dẫn vào hai trọng tội: Trước là phụ ân
Đấng Tạo Hóa Đức Chúa Trời, sau là phụ ân dưỡng dục là bất hiếu với song thân. Câu “nhân
vi quí” và “Thiên sinh vạn vật duy nhân tối linh” là Trời sinh ra muôn loài chỉ duy có loài
người là có linh hồn, là sanh linh quý báu nhất theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời.
“Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam
cùng người nữ” (Sáng-thế-ký 1:27).
“Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ
mũi; thì người trở nên một loài sanh linh” (Sáng-thế-ký 2:7).
Ngài rất yêu thương và bảo tồn nhân loại nên đã ban cho không xiết kể cả quyền
quản trị súc vật: “Đức Chúa Trời phán:.. làm nên loài người như hình ta và tượng ta đặng
quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất và khắp cả
đất” (Sáng-thế-ký 1:26). Sau khi tổ phụ loài người do sự cám dỗ của rắn Satan mà phạm
tội, sự gian ác loài người càng thêm nên bị hủy diệt trong cơn nước lụt rồi Đức Chúa Trời ban
phước cho Nô-ê và truyền các nguyên tắc: ”Phàm vật chi hành động và có sự sống thì dùng
làm đồ ăn cho các ngươi. Ta cho mọi vật đó như cho thứ cỏ xanh. Song các ngươi không nên
ăn thịt còn hồn sống, nghĩa là có máu” (Sáng-thế-ký 9:3-4).
Dù loài người được quyền quản trị loài vật song không được sát hại bừa bãi vì đức
hiếu sinh và bảo tồn. Người ta nuôi gia súc gia cầm làm thực phẩm. Nhưng khi có thiên tai
dịch bệnh như lỡ mồm long móng, H1N1, v.v. người ta phải giết hàng triệu triệu con vật như
trâu bò, heo, chim gà vịt, v.v. hầu bảo vệ con người. Chẳng phải ta không có lòng thương
xót loài thú, vì hiện nay loài vật quý hiếm được nuôi dưỡng chăm sóc ở rừng Phi châu. Thế
giới cũng kêu gọi bảo tồn loài vật sắp tuyệt chủng.
Thực phẩm là nhu cầu sự sống cho sức khỏe của nhân loại hầu bảo trọng sinh mệnh
con người. Đức Chúa Trời không chấp nhận sự luân hồi chuyển kiếp giữa người và thú, giống
nào phải sinh ra giống nấy, không thể xem sinh mệnh loài thú ngang bằng với loài người, vì
công chính và thánh khiết không do bởi thức ăn làm nên, tự tìm đường giải thoát với cách
tránh sát sanh và trường chay là vô ích. Việc tự thiêu là điều bị lạm dụng đáng thương và
làm ưổng phí một đời người, vì con người bất lực với tội lỗi mình, không thể làm cách nào
xóa tội được. Trước mặt Đấng Tạo Hóa, do ơn sáng tạo của Ngài mới có mặt chúng ta ở cõi
đời này. Ân sủng ban cho sự cứu rỗi chỉ duy nhờ Đức Chúa Trời. Ngoài Đấng Tối cao ấy
chẳng có Đấng nào khác có đủ quyền năng cứu chuộc tội lỗi thế gian: “Ấy là nhờ ân điển bởi
đức tin mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức
Chúa Trời. Ấy chẳng phải bời việc làm đâu. Hầu cho không ai khoe mình” (Ê-phê-sô 2:8, 9).
Nhìn những Phật tử có thiện tâm đáng thương có lòng mong muốn tìm đường giải
thoát tội lỗi bằng sự ép xác khổ hạnh như thế. Mong cầu Chúa mở mắt mở lòng cho họ tìm
thấy ánh sáng chân lý cứu rỗi của Chúa cho tâm linh họ được thức tỉnh quay về với cội
nguồn, nơi Đức Chúa Trời tạo dựng nhân loại tổ tiên mình. Những dấu hiệu của ngày tận thế
cũng là ngày Đức Chúa Giê-su tái lâm đã thấy xuất hiện nhiều nơi, đúng như sự cảnh báo
của các tiên tri trong Kinh Thánh. Vậy ai là người biết sợ tội lỗi, tự thấy mình là tội nhân
đang đứng trước sự phán xét của Đức Chúa Trời, hãy tìm kiếm Đức Chúa Giê-su với mục
đích tội được tha, linh hồn được cứu vì khi sự chết đến bất ngờ, họ sẽ không còn cơ hội nữa.
Hãy kịp ăn năn, tin cậy và làm vinh hiễn danh Chúa: “Vì chưng anh em đã được chuộc bằng
giá cao rồi. Vậy hãy làm sáng danh Đức Chúa Trời” (I Cô-rinh-tô 6:20)
Ngọc Thành
Http:hoptinhhoply.net