Trong hai thập niên
gần đây, quan niệm về vitamine E đã có nhiều thay đổi. Chất này lúc đầu được
đặt tên là tocopherol, nghĩa là nữ hộ sinh, do thầy thuốc phát hiện tác dụng
tăng cường khả năng sinh sản của nó trên súc vật thí nghiệm. Từ đó, vitamine E
được ứng dụng cho người hiếm muộn.
Sau đó, người ta ghi
nhận vai trò quan trọng của vitamine này đối với da, vừa che chở mặt da trước
tia tử ngoại, vừa thúc đẩy phản ứng tổng hợp sợi đàn hồi dưới da, giúp da ít
có nếp nhăn. Tác dụng này càng rõ nét hơn nữa khi có sự hiện diện đi kèm của
vitamine A. Chính vì thế mà cặp bài trùng E + A là thành phần thường gặp trong
nhiều loại mỹ phẩm.
Vitamine E có nhiều
tác dụng. Nhằm ngăn chặn hiện tượng xơ vữa mạch máu, thật khó có hoạt chất nào
qua mặt được vitamine E nhờ vitamine này có khả năng giữ máu loãng và bảo vệ
mặt trong của mạch máu. Thống kê kéo dài hơn ba năm trên toàn nước Anh cho
thấy, những người đủ vitamine E ít xảy ra nhồi máu cơ tim. Các nhà nghiên cứu ở
đại học Harvard ắt hẳn đã có cơ sở vững chắc khi cổ động cho biện pháp phòng
ngừa bệnh mạch vành với vitamine E.
Công dụng quan trọng
hàng đầu của vitamine E chính là tác dụng phòng ngừa ung thư nhờ khả năng trung
hòa độc chất oxy-hóa trong cơ thể. Rõ ràng là tế bào ít khi bị phân hóa theo
kiểu ngẫu biến khi có sự hiện diện của vitamine E. Bằng chứng là người có đủ
vitamine E ít khi mắc bệnh ung thư.
Cụ thể hơn, thầy thuốc
ở Phần Lan quả quyết là tỷ lệ nhiễm ung thư phổi, ung thư trực tràng và tiền
liệt tuyến rất thấp ở nam giới có thói quen dùng vitamine E mỗi ngày. Kết quả
một công trình khảo sát kéo dài hơn 10 năm ở Thụy Điển cho thấy, tỷ lệ ung thư
ruột trên đối tượng bị căng thẳng nghề nghiệp cao gấp năm lần nếu đối chiếu với
người có cuộc sống thư thả. Nhưng khi so sánh số người tuy cũng căng thẳng vì
cuộc sống nhưng biết ứng dụng vitamine E thì tỷ lệ nhiễm bệnh chỉ còn gấp đôi
so với nhóm đối chứng. Hơn thế nữa, vitamine E tăng cường tác dụng của xạ trị
cũng như của thuốc diệt ung thư, đồng thời giới hạn các phản ứng phụ thường gặp
của liệu pháp như thiếu máu, viêm thần kinh ngoại biên… Dữ liệu thống kê cũng
cho thấy số người sống sót cao hơn, thời gian tái nhiễm kéo dài hơn, tỷ lệ di
căn thấp hơn, khi so sánh với nhóm đối chứng không được điều trị phối hợp với
vitamine E.
Trên thực tế hầu như không có bệnh chứng chuyên biệt do thiếu vitamine E. Dù
vậy, các nhà nghiên cứu từ lâu đã ghi nhận mối liên hệ mật thiết giữa đối tượng
có lượng vitamine E trong máu quá thấp và nhiều căn bệnh thời đại như dị ứng,
thấp khớp, mắt cườm, loãng xương… Nhiều nhà điều trị vì thế đã không ngần ngại
cổ động cho biện pháp theo dõi. Tuy nhiên, một số dấu hiệu bệnh lý như rối loạn
thị lực, co thắt bắp thịt, mỏi tứ chi, đãng trí… thường được làm tiêu chí để
phát hiện kịp thời tình trạng thiếu hụt vitamine E.
Vitamine E có nhiều trong các loại dầu đậu nành, dầu hoa hướng dương, trong đậu
phộng, đậu xanh, mè, hột điều, khoai lang và trong nhiều loại rau như rau dền,
củ su hào. Thông thường không cần dùng thuốc có vitamine E ngoại trừ trường hợp
của thai phụ, người cho con bú, bị stress. Riêng bệnh nhân ung thư nên được
cung cấp với hàm lượng vitamine E cao gấp năm lần bình thường.
Không riêng gì với vitamine
E, với dưỡng chất nào cơ thể cũng khó “hụt vốn” nếu khéo bù lỗ
( Sưu tầm )