Giỏ Đầy Thứ Mười: Mang Những Quả Thật Đẹp
Sự Tha Thứ và Những Phước Hạnh Thiên Đàng
Bà Mẹ Kế
Con Chim Xấu Xí
Vác Thập Tự Giá
Đứa Bé Bị Bỏ Rơi
Sự Tha Thứ và Những Phước Hạnh Thiên Đàng
Ngài thực sự yêu thương những người con
gái của đức tin đang ngồi trước mặt tôi như những bé thơ. Ngài chăm sóc và bảo
vệ những cô gái trẻ nầy đang cố gắng để theo Ngài trong sự vâng phục và trong đức
tin. Là tôi tớ của Ngài, tôi đã cố gắng làm hết sức mình như một người mẹ nuôi khi
Ngài cần đến tôi. Tôi đã rửa chân cho chúng, an ủi tấm lòng của chúng, nắm tay
chúng, la rầy khi chúng bước đi sai, cầu nguyện cho chúng và gia đình chúng
ngày đêm. Trong những năm đầu, Ngài bày tỏ ra những vết thương sâu và những tấm
lòng tan vỡ của chúng. Rồi Ngài chữa lành và an ủi chúng.
Ngài đã dùng sự tha thứ để phá đổ bức tường ghen ghét trong mối quan hệ của con
người. Cho đến nay, Ngài vẫn muốn ban phước cho chúng ta với "sự tha thứ
và giải hòa" kỳ diệu khi Ngài tự bày tỏ chính mình ra cho thế giới nầy.
Có một cái móc rủa sả được gọi là "sự ghen ghét không chịu tha thứ."
Cái móc bén nhọn nầy phá hủy những linh hồn và ngăn họ đến trước mặt Chúa. Cái
móc đó móc vào mỗi quả tim và làm cho rướm máu đớn đau. Điều gian ác gọi là
ghen ghét nầy được dấu kín đàng sau thứ tình cảm bám rễ sâu trong lòng người giống
như một thứ nấm độc.
Chúng ta không thể nào tự mình loại bỏ được những gốc rễ nầy. Thứ nấm độc nầy
lan ra rất nhanh. Ngay lúc ta nhổ được một gốc nấm thì có một gốc nấm khác mọc
ra ngay kế bên. Chúng ta làm thương tổn lẫn nhau bởi một lời nói. Đã nhiều lần
chúng ta từng trải thể nào một tấm lòng tha thứ dễ dàng biến thành tấm lòng
ghen ghét trở lại. Chúng ta cố gắng thay đổi quyết tâm của chúng ta, nhưng chỉ
vài ngày sau thì đâu cũng hoàn đó.
Chỉ có một người có thể bức đứt được xích xiềng rủa sả nầy và làm cho chúng ta
giải hòa. Đó là chính mình Chúa Giê-xu. Ngài là Đấng duy nhất có thể tha thứ
hoàn toàn và vô điều kiện. Đó là cách Ngài đã bày tỏ sự tha thứ của Ngài ngay
trên thập tự giá trước khi Ngài chịu chết. Ngài nói với những người lính La-mã,
những người Pha-ri-si, những người chế giễu, những người rủa sả Ngài, "Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì." Ngài đã bày tỏ
cho chúng ta "sự tha thứ và giải hoà" như là một sinh tế sống để nhờ đó
chúng ta có thể bước đi theo Ngài.
Sự tha thứ là một phước hạnh thiên đàng. Chỉ một mình Ngài làm được điều đó.
Ngài có thể bày tỏ quyền năng của Ngài trong lòng những người được tái sinh.
Tôi muốn làm chứng cho Ngài qua ngòi bút già nua về những đứa con gái đức tin của
tôi. Chúng đã đến gặp Ngài sau những ngày lang thang trong sa mạc. Ngài đồng
hành với những cô thiếu nữ trẻ, nắm lấy tay chúng dẫn qua những con đường hẹp
trong đời đến con đường thập giá suốt mấy năm. Ngài chia sẻ bông trái vui mừng
qua sự vâng lời tha thứ. Tôi muốn tâm linh chúng ta được sung mãn những bông
trái thiên đàng. Tôi cầu nguyện để tất cả những tấm lòng của những người đang đọc
quyển sách nầy sẽ nhận được ân điển diệu kỳ giống như lớp tuyết trắng bao phủ
tâm hồn hằn vết thương sâu.
* * *
Nếu bạn và tôi có tội lỗi nặng nề nào,
chúng ta đều có thể đến cùng Chúa, giơ hai tay lên kêu cầu Ngài. Ngài sẽ lấy
huyết xóa sạch tội lỗi chúng ta và làm cho chúng ta sạch trắng như tuyết.
Ngài mở rộng đôi tay đón bạn và nói, "Tại sao con cứ mang gánh nặng của thế
giới rối ren nầy? Hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cất đi khỏi con tấm lòng nặng nề và Ta
sẽ đồng đi với con. Ta sẽ cho con yên nghỉ nhẹ nhàng trong cánh tay Ta."
Ngài đang gọi bạn bằng tiếng dịu êm của Ngài.
Hãy đến với Ngài,
Hãy đến với nguyên trạng của bạn,
Như khi bạn mệt mỏi, đói khát, trần truồng, thất vọng, với tấm lòng thương đau,
Hãy đến trước mặt Ngài
Hãy kêu cầu Danh "Chúa Giê-xu."
Ngài đang chờ đợi bạn từ lâu, ngay cả trước khi bạn ra đời.
Ngài sẽ chạy đến với bạn với vòng tay mở rộng để ôm choàng lấy bạn.
Ngài sẽ lau ráo những giọt nước mắt của bạn.
Ngài sẽ bồng ẵm bạn và bảo vệ bạn khỏi những rắc rối cuộc đời.
Ngài sẽ đưa bạn đến nước vĩnh cửu của Ngài trong ngày cuối cùng.
Bà Mẹ Kế
"Mẹ ơi, con không thể tha thứ cho mẹ
kế của con bao giờ. Bà đánh con và em trai con nhiều lần. Bây giờ em trai con đã
chết. Con có vết thương lòng sâu lắm. Con có thể tha thứ bất cứ ai trên thế giới,
ngoại trừ bà mẹ kế của con."
Người thiếu phụ khóc như một em bé trước mặt tôi. Lúc ấy bà đã sáu mươi mốt tuổi
rồi. Bà là con gái đầu lòng của một gia đình giàu có. Bà là niềm hy vọng cho
gia đình. Bà thông minh, đẹp, tốt bụng và luôn luôn vui cười. Bà có mối thân
tình với người em trai chỉ trẻ hơn bà một tuổi. Chị em bà yêu thương và chăm sóc
cho nhau. Khi bà lên mười tuổi, mẹ bà bị bịnh qua đời, để lại bà và đứa em trai
chín tuổi. Cha bà là người đi xa làm ăn thường xuyên đã cưới vợ khác để chăm lo
cho mấy đứa con còn nhỏ dại.
Vào ngày bà mẹ kế đến nhà, bà đã khóa cửa phòng và khóc suốt mấy giờ liền với bức
ảnh của mẹ ruột cầm trên tay. Bà mẹ kế là gái đồng trinh khi lấy cha bà làm chồng.
Bà nầy lạnh lùng như gió mùa đông. Nhất là khi cha bà đi xa, bà và đứa em quá sợ
bà mẹ kế đến nỗi không dám nói chuyện với bà. Hai chị em ôm nhau và vừa khóc vừa
kêu "Mẹ ơi!"
Nổi khổ nầy quá lớn đối với bà và người em trai. Họ đang chết dần chết mòn dưới
ánh mắt thù ghét của bà mẹ kế. Sự cay nghiệt và tàn nhẫn của bà mẹ kế làm cho
hai chị em cứ trông ngóng tình yêu của người mẹ. Khi bà mẹ kế có con riêng, bà
càng thấy sự phân biệt rõ ràng giữa hai bên.
Em trai và em gái của bà mẹ kế được chuẩn bị cơm nước ngon lành, còn bà và em của
bà thì chỉ được ăn uống sơ sài. Bà không nói được lời nào nhưng thường chạy vào
phòng lặng lẽ khóc. Đứa em trai vui vẻ luôn miệng cười tươi bây giờ đã đổi thay
nhiều thành một cậu bé lặng lẽ và bị chèn ép. Cha bà rất cưng đứa em trai của
bà vì nó đẹp trai và học giỏi nhất lớp. Điều nầy đã làm bà mẹ kế càng ganh tức
và hành hạ chị em bà nhiều hơn.
Bà lớn lên với cảm giác căm ghét bà mẹ kế nung nấu trong lòng. Nhưng em trai của
bà đã kiên trì chờ đợi và lặng lẽ suốt mười sáu năm trước khi anh gia nhập quân
đội. Sau khi giải ngũ, anh đã qua Mỹ xây mộng làm ăn.
Một ngày kia, em bà từ Mỹ gọi về Đại Hàn cho bà. Lúc đó là độ hai tuần trước
khi anh chết. Bà vẫn còn nghe văng vẳng tiếng nói của cậu em trai và nhớ rõ những
lời sau chót.
"Chị yêu dấu, chị nên tìm gặp Chúa Giê-xu là Đấng em đã từng gặp tại đây.
Nếu em chết trước khi thấy chị, em muốn được gặp chị ở thiên đàng. Ngài đã chữa
lành những vết thương sâu hoắm trong lòng em và em không còn cảm giác căm ghét
mẹ kế của chị em ta. Chị cũng hãy làm ơn tha thứ cho bà ấy. Em muốn mẹ kế, em
trai và em gái kế cũng gặp gỡ Chúa Giê-xu. Em đang có bình an trong lòng và em đang
hạnh phúc."
Em của bà đã gặp được Ngài và đã được chữa lành những vết thương sâu. Ngài đã
an ủi và hồi phục em của bà. Chẳng những vậy, anh còn tha thứ cho bà mẹ kế trước
khi anh về với Ngài. Khi em trai của bà qua đời, bà càng buồn thương cho em nhiều
hơn nữa. Bà ghét người mẹ kế đã bạc đãi và ghét bỏ cậu em trai của bà đến nỗi
anh ấy đã chết khi còn quá trẻ.
Sau đó bà đã đến Hoa Kỳ khi đã năm mươi hai tuổi. Năm sau đó là năm 1989, bà đã
gặp tôi. Bà đến trước mặt Ngài, ăn năn tội lỗi và trở nên con gái của Ngài.
Vào một ngày hè năm 1992, cậu em trai con bà mẹ kế gọi điện thoại cho biết gia đình
bà mẹ kế đã đến Los Angeles. Họ muốn gặp bà. Bà không muốn thấy bà mẹ kế còn sống
và bà thề không tha thứ cho bà mẹ kế bao giờ. Bà đưa ra nhiều lý do để từ chối
gặp mặt. Nhưng cuối cùng vài tháng sau, bà đã gặp lại bà mẹ kế và người em cùng
cha khác mẹ của mình. Giây phút bà gặp lại người mẹ kế, năm mươi năm ký ức cũ
trở về giống như mới xảy ra ngày hôm qua khi bà và đứa em trai lên chín bị đánh
đập và chạy ra khỏi nhà khóc lóc đắng cay. Bà miễn cưỡng đến nhà gặp người mẹ kế,
nhưng lòng bà vẫn không yên.
Ngài chẳng từng phán, "Hãy yêu cả kẻ thù" đó sao?
Ngài há chẳng từng phán, "Khi con tha lỗi cho người khác thì tội lỗi của
con sẽ được tha?" Bà đã cầu xin Ngài giúp bà tha thứ được bà mẹ kế. Bà kêu
khóc với Ngài vì tự sức riêng bà không thể nào tha thứ được. Vết thương lòng của
bà quá sâu. Bà cầu nguyện và khóc lóc gần cả một năm.
Một ngày kia bà nghe Ngài phán, "Con gái yêu dấu của Ta! Ta đã từng nói nếu
con ghét anh em con, là con đã giết anh em con rồi. Con đã cố giữ con dao thù
ghét suốt năm mươi năm qua. Con đã giết chóc mỗi ngày trong năm mươi năm qua.
Con là kẻ giết người! Khi Ta đổ huyết ra trên thập tự giá để tha tội cho con,
huyết đó cũng bao phủ tội lỗi mẹ kế của con nữa. Em trai của con đã chịu khổ vì
thù ghét rất nhiều, nhưng anh ấy đã tha thứ cho mẹ kế của con và bây giờ anh đã
yên nghỉ với Ta. Con thì vẫn còn phủ kín vết thương sâu."
Suốt đêm bà ăn năn tội lỗi và sự thù ghét của mình. Bà đợi trời sáng và đích
thân đến nơi ở của bà mẹ kế. Ở đó, bà đã quì gối xuống trước bà mẹ kế và xin
tha thứ cho mối hận thù. Bà mẹ kế lên tiếng, "Chính mẹ mới là người cần được
tha thứ. Con hãy tha thứ cho mẹ." Hai người đàn bà ôm nhau và khóc. Lúc bấy
giờ, sự hiện diện của Ngài bao phủ cả hai người đàn bà biết tha thứ và được thứ
tha.
Đó là sự đắc thắng mà chỉ một mình Ngài mới thực hiện được để giải phóng sợi
xích nô lệ cho hận thù kéo dài suốt năm mươi năm. Trong ngày hòa giải đó, ánh
sáng bình an, an ủi, yêu thương của Ngài đã chiếu sáng mái đầu của hai người đàn
bà khi những vết thương sâu lành lặn hẳn.
Con Chim Xấu Xí
"Mẹ ơi, con không thể đợi thêm được nữa.
Một lần, chỉ một lần nữa xin để cho con hỏi tại sao con lại đau đớn thế nầy.
Con là một nạn nhân đau khổ."
Cô ấy đã chờ đợi khá lâu, nhưng cô không chịu đựng được nữa và cô đã bật khóc,
nước mắt chảy dài. Lòng tôi cũng cảm thấy đau khi nhìn cô gái khóc không ngừng.
Tôi ôm lấy đứa con còn thơ bé của cô và nói với cô, "Con yêu, không phải một
mình con chịu khổ đâu. Ngài cũng chịu khổ nữa. Nhưng Ngài không phàn nàn với bất
cứ lý do bào chữa nào cả. Hãy nghĩ đến Chúa Giê-xu. Nếu con học tập kiên nhẫn
và tha thứ qua sự đau khổ của con, thì kẻ thù của con sẽ trở thành ân nhân của
con. Hãy chờ đợi và kiên nhẫn. Hãy cầu nguyện cho kẻ thù của con.
Nếu con vâng theo lời Ngài, con có thể lấy thiện thắng ác. Hãy cầu xin Ngài
tuôn đổ dòng sông ân điển. Nếu nước cạn con sẽ thấy đá sỏi dưới lòng sông. Nhưng
nếu nước sâu, những đá sỏi làm con đau đớn sẽ không còn nhìn thấy nữa. Rồi chiếc
thuyền của con sẽ thẳng tiến tới Ngài. Con có hiểu không?"
Từ lúc đó, cô ghi nhớ lời Ngài trong lòng và khởi sự cầu nguyện cho dòng sông
ân điển bằng nước mắt. Cô đã chịu khổ vì những bạn bè trong Hội Thánh đã tố
cáo, đồn đại và hiểu lầm. Trước đây họ đã từng là bạn thân. Cô đã trở lại đạo
nhưng đức tin của cô giống như một em bé. Cô tin Ngài nhưng lòng cô xa cách khỏi
lời dạy của Ngài.
Một ngày vào Tháng Mười năm 1988, linh hồn trẻ nầy đã tìm đến gặp tôi. Từ đó,
cô đến thăm tôi thường xuyên mặc dầu đường đi lái xe khá xa xôi. Cô đã đến để học
biết đường về luật pháp và ân điển của Đức Chúa Trời. Cô thường ở lại cho tới
khuya. Cô khao khát Lời Ngài. Cô ham học hỏi để giữ gìn đường lối của Ngài như
một em bé đang đói đòi bú sữa.
Ngay sau khi gặp tôi, cô chịu khổ vì sự đàm tiếu của một người bạn thân. Bạn cô
tung tin đồn cô đi theo tà giáo và dự phần trong tà giáo đó. Người ta phải coi
chừng cô. Tin đồn từ người bạn của cô trở nên mũi dao nhọn đã phân rẽ cô với
nhiều bạn bè khác trong Hội Thánh. Hầu hết bạn hữu của cô đã xây lưng lại với
cô và chế giễu cô.
Sau khi ở nhà thờ về, cô đi ngay về nhà và khóc lóc với Ngài về nỗi khổ của cô.
Ngày tháng trôi qua, lời tố cáo của bạn cô trở nên mạnh mẽ hơn và vết thương của
cô trở nên sâu đậm hơn. Trong suốt ba năm trời, cô đã đấu tranh với tình cảm lẫn
lộn giữa tức giận và tha thứ. Ngay giữa lúc đau khổ đó, Ngài đã đến và thăm viếng
cô và nói với cô, "Con gái yêu dấu của ta, con không thể tự sức mình làm
gì được cả." Cô kể với tôi rằng cô than khóc đấm ngực trong phòng. "Lạy
Chúa, con đã tha thứ cho cô ấy nhiều lần nhưng con đã thất bại. Con nghĩ con có
đức tin và tình yêu để tha cho bạn con, nhưng đó chỉ là sự kiêu ngạo của con.
Xin hãy tha thứ cho con. Con cần Ngài giúp đỡ. Xin hãy đến và đổ đầy trong con
tình yêu và sự tha thứ của Ngài."
"Điều gì con buộc ở dưới đất sẽ buộc ở trên trời và điều gì con mở ở dưới đất
sẽ được mở ở trên trời." Những lời nầy từ Ngài đến có ý nghĩa với cô rất
nhiều. Cô biết rằng cô đã tự buộc chính mình khi cô buộc bạn cô với sự thù ghét
và không tha thứ. Cô đã buộc tâm linh cô bằng những xiềng sắt cũng y như cô đã
làm cho các bạn của cô. Cô đã xưng tội mình trước ánh sáng của Ngài.
"Lạy Chúa, con đã được Ngài tha thứ tội lỗi và những quá phạm. Xin tha thứ
cho con vì đã không bao phủ các bạn con bằng tình yêu thương."
Từ lúc đó, sự tức giận, ghen ghét, nóng nảy biến mất khỏi lòng cô bất kể những
sự khinh bỉ của bạn bè. Cô đã bước đến với Chúa Giê-xu là Đấng đã ban cho cô sự
sống, tình yêu và lòng thương xót.
Cô trở nên khiêm nhu hơn và lòng thanh thản khi sự kiêu ngạo và tự mãn bị tan vỡ
trải qua thời gian tám năm. Qua sự kiên nhẫn, cô đã trở nên một tia sáng thật
cho gia đình cô và cô đã dẫn đưa chồng của cô cùng ba đứa con đến con đường sống
thật. Cả nhà cô hiện đang phục vụ tại Hội Thánh chúng tôi, một Hội Thánh mà
Ngài đã hy sinh bằng chính thân Ngài.
Có lần cô nắm tay tôi và nói, "Mẹ ơi, con còn nhớ những gì mẹ đã nói với
con, đó thật là những lời an ủi lòng con."
Một bầy gà con và một cô chim trĩ sống chung lẫn lộn với nhau. Những con gà con
vàng vàng thật dễ thương, chúng chăm sóc lẫn nhau trong tình yêu và sự tử tế.
Nhưng cô chim trĩ bị những con gà con ghét bỏ vì cớ bộ lông đen đúa và trông có
vẻ xấu xí. Cô chim trĩ luôn luôn cô đơn. Cô ăn riêng và chơi riêng một mình khi
cô bị những con gà con trách móc. Chúng ghét cô và hay lấy mỏ cắn vào cô. Nhiều
khi cô bị mất lông và chảy máu. Rồi một ngày nắng đẹp, cô chim trĩ đã lớn giăng
đôi cánh của mình và bay lên trời cao nơi có những con chim trĩ khác đang lượn
cánh.
Mẹ ơi, khi con cô đơn và đau khổ, mẹ đã kể cho con nghe câu chuyện nầy và mẹ đã
nói, "Con là con chim trĩ đó." Đó là hy vọng duy nhất của con và con
nhớ mãi trong tim. Một ngày nào đó, khi trời nắng đẹp đến, con có thể bay lên
trời cao, để lại đàng sau tất cả những buồn đau, chán nản và hiểu lầm. Với hy vọng
đó trong lòng, con đã chịu đựng được những khổ đau."
Khi tôi nhìn vào đôi mắt của cô gái khi cô ấy nói chuyện, tôi có thể thấy niềm
hy vọng được chúc lành trong đôi mắt của cô.
Vác Thập Tự Giá
"Cho dù tha thứ là điều vô cùng khó
khăn vì cớ sự ganh ghét trong lòng ta, chúng ta cũng phải tha thứ bằng tình thương
của Chúa Giê-xu. Nếu bỏ rơi những linh hồn bịnh hoạn và đau khổ, chúng ta không
phải là những người tin Chúa thật lòng. Con hãy đón nhận lấy người chồng bệnh tật
và chăm sóc cho chồng. Đây là việc khó làm, nhưng chính Ngài đã bày tỏ cho
chúng ta và nêu gương cho chúng ta. Hãy tiến tới trước một bước nữa."
Thật là khó để tôi nói với một trong những người con gái đức tin còn non yếu của
tôi nhận lấy gánh nặng và đi theo Ngài. Đó là vào mười năm trước đây. Tôi nhận được
cú điện thoại khẩn cấp trong khi tôi đang dự lễ đón giao thừa năm mới 1989. Tôi
vội đến nhà chị của cô. Khi mở cửa, tôi ngã quị xuống trước cảnh tượng hãi
hùng. Khuôn mặt nhỏ và gầy của cô sưng lên to gấp đôi. Mặt cô bị đánh đập tàn
nhẫn và đầy cả máu. Cô bị đánh nặng quá đến nỗi máu văng khắp người cô.
Tôi trấn an cô và hỏi việc gì đã xảy ra cho cô. Đó là câu chuyện không tưởng tượng
nỗi. Chồng cô đi ra buổi sáng và trở về nhà. Anh khởi sự đánh cô như một người điên
và bảo cô phải xưng tội. Cô không hiểu anh muốn nói gì. Sau đó cô nhận biết chồng
cô đang tố cáo cô là phạm tội ngoại tình. Cô nói là cô không hề phạm tội đó.
Anh ta trở nên điên loạn và đánh thẳng vào mặt, vào thân của cô bằng nắm tay và
bằng bàn chân. Cô đau quá và chạy vô phòng riêng. Anh đi theo và đá vào ngực
cô. Cô bị đánh nhiều quá đến nỗi cô nghĩ mình sắp chết. Cô gọi cho bà chị và
xin chị giúp đỡ.
Cô vùi mặt vào giữa hai chân tôi và khóc lớn, "Mục sư ơi, tại sao lại như
thế nầy?"
"Khi Chúa bảo người ta hãy tin Ngài, họ đã không chịu tin Ngài nhưng lại đóng
đinh Ngài trên thập tự giá. Lòng Ngài có đau đớn như lòng con không?" Cô
có đủ mọi lý do để đau buồn.
Tôi nhìn cô rất gần. Tôi biết cô yêu chồng và hai đứa con gái. Cô là mẫu người
phụ nữ Đại Hàn tiêu biểu thủy chung. Cô chỉ biết làm việc và lo cho gia đình.
Cô đã lấy một người chồng đã có đứa con trai ba tuổi trái với ý muốn của gia đình
cô.
Lần đầu gặp cô, anh nói với cô là vợ anh đã ngoại tình. Anh nói anh cố thuyết
phục vợ trở về nhưng vợ anh không chịu đến nỗi anh phải li dị vợ. Câu chuyện đau
buồn của người đàn ông nầy đã cảm động lòng cô. Khi cưới nhau, anh là một người
chồng tốt. Họ yêu nhau và có một gia đình hạnh phúc.
Khi đứa con gái thứ hai ra đời, anh trở nên khác trước. Cuối cùng anh nói đứa
con gái đó không phải là con của anh và thậm chí anh không chịu bồng con bé.
Lúc đó cô không biết rằng anh có chứng bịnh nghi ngờ chí tử về sự thủy chung của
vợ. Bề ngoài anh bình thường, nhưng trong lòng anh dày xéo. Cô hy vọng anh sẽ sớm
trở lại bình thường. Cô chăm sóc cho anh và cố gắng giúp anh trở lại bình thường.
Cô sống như người đi trên lớp tuyết mỏng suốt hai năm.
Cuối cùng việc nầy đã xảy ra vào đêm giao thừa năm mới 1989. Chuyện đổ bể ra là
anh đã thuê thám tử tư theo dõi cô suốt hai năm trước khi xảy ra cớ sự. Viên
thám tử bảo anh, "Vợ anh trong sạch và cô ấy không làm gì sai cả. Tôi nghĩ
anh mới có vấn đề." Thế là sự việc của anh lắng đọng.
Câu chuyện được xác nhận khi người anh rễ của cô đến gặp viên thám tử. Họ bảo
anh hãy đi gặp Bác sĩ Phân Tâm Học trước khi anh gây chuyện lớn hơn.
Điều nầy đã làm anh giận dữ hơn, và anh quyết định tự mình theo dõi vợ. Mỗi tiếng
đồng hồ, anh gọi điện thoại cho vợ ở sở làm, kiểm tra những lần ăn của cô, và
thậm chí kiểm tra những lần đi chợ mua đồ ăn của cô cùng với các con. Nếu cô đi
làm hoặc đi về nhà trễ chừng năm phút là anh đã nghi ngờ. Hiện tượng bịnh hoạn
nầy càng ngày càng trầm trọng đến nỗi anh tin là vợ anh ngoại tình thật với người
đàn ông đang sống gần nơi cô làm việc.
Buổi sáng hôm đó, anh dẫn đứa con gái lớn ba tuổi đến chung cư mà anh nghi ngờ.
Anh gõ cửa nhà và người đàn ông ra mở cửa. Anh hỏi đứa con gái, "Có phải
ông nầy không?" Con bé gật đầu. Thế là anh trở về nhà và đánh đập vợ anh
như một người điên không một chút lý do.
Cô khám phá ra là anh mắc một chứng bịnh nghi ngờ vợ rất trầm trọng. Đó là lý
do anh đã ly dị người vợ thứ nhất. Lúc đó, anh đã uống thuốc do một Bác sĩ Phân
Tâm Học cho toa.
Từ lúc xảy ra vụ đánh đập đó, bệnh của anh càng trầm trọng. Anh bỏ nhà đi. Khi
cảm thấy khá hơn, anh trở về nhà. Anh trở đi trở lại như thế mấy lần. Khi cái
chu kỳ đó tái diễn, cô đã cố gắng giúp anh trở lại bình thường. Nhưng anh không
khá hơn. Anh cứ nói đi nói lại rằng anh là người duy nhất trên thế giới biết vợ
bí mật ngoại tình. Nhiều lần anh khóc lóc nài nỉ vợ trở lại với mình.
Một Chúa Nhật kia, khi cô từ nhà thờ về nhà, cô thấy nhà trống rỗng. Trong khi
cô đi nhà thờ với các con, anh đã thuê người dọn hết bàn ghế đồ đạc ra khỏi
nhà. Hai đứa con gái, đứa học lớp hai, đứa học lớp bốn đã ngã lăn ra đất và
khóc lóc. Cô cố gắng an ủi chúng nhưng rồi cô cũng bắt đầu khóc. Tất cả những cố
gắng và gian khổ của cô để cố đưa anh trở lại đã trở thành vô ích. Tin tưởng
anh chỉ là hư không.
Từ đó, cô đã sống một cuộc đời gian khổ cô đơn suốt bốn năm với hai đứa con.
Nhiều lần cô muốn ngã nhào xuống đất và kêu gào với một người nào đó. Lúc đó,
cô đã học đứng vững một mình với sự giúp đỡ của Ngài. Cô biết rõ chính là nhờ
ân điển của Ngài đã giữ gìn cô suốt bốn năm qua. Những khi cô đau đớn và buồn
bã nhất, Ngài đã đến thăm và an ủi cô. Những lúc như thế, Ngài bồng ẵm cô và
vác cô trên vai Ngài trong khi Ngài bước đi trên những nẻo đường tối tăm nhất của
cuộc đời.
Đó là cách cô trải qua trong bốn năm qua. Cô không nghe tin gì cả về người chồng.
Một ngày kia anh gọi cho cô và muốn gặp cô. Gương mặt anh xanh xao. Anh nói anh
bị bịnh tiểu đường. Anh nói anh bị ngã quị ở sở làm và được đưa vào bệnh viện một
thời gian. Anh nói khi anh khát nước lúc ban đêm, hai chân của anh đau đớn quá
và anh phải lăn người xuống nhà bếp để lấy nước uống. Anh muốn trở về nhà gặp
hai đứa con gái trước khi anh chết. Cô không muốn tiếp nhận anh lần nữa. Cô
không muốn tái diễn cảnh địa ngục trong đời sống cô. Cô chỉ muốn sống một mình
với hai đứa con thôi.
Cô không muốn đón anh về và cô cũng không tin về bịnh tiểu đường của anh. Cô đã
quá mệt mỏi. Cô không trả lời với anh và cô đã đến với tôi trong đêm hôm đó.
Tôi khuyên cô hãy vác thập tự giá và bước đi trong đường lối Ngài. Tôi đã cầu
nguyện tha thiết trong đêm hôm đó để cô có đủ sức mạnh đứng vững bởi đức tin.
Vài ngày sau, cô đã tha thứ cho anh bằng tình yêu của Ngài và cô đã đưa anh chồng
bệnh hoạn về nhà. Cô đã quyết định cầu nguyện xin Ngài cứu rỗi linh hồn khốn khổ
của anh, một người không biết đang đi về đâu. Cô tin rằng chính mình Chúa là Đấng
duy nhất có quyền năng cứu sống anh từ cõi chết.
Cô bước ra khỏi nơi ở của tôi khi cô đã hứa sẽ vác thập tự giá, dâng gánh nặng
lên cho Ngài và theo Ngài từng bước. Mắt tôi dâng tràn nước mắt khi tôi nhìn thấy
đôi vai nhỏ bé của cô bằng lòng vâng phục.
Ngài đã phán, "Hãy liều mình, vác thập giá mình mà theo Ta." Tôi ngước
nhìn con đường Ngài đã đi là con đường đầy nước mắt nhưng cũng là con đường dẫn
đến sự sống đời đời. Tôi cầu nguyện Ngài để cho cô được thịnh vượng trong mọi sự
cũng như linh hồn cô thịnh vượng vậy.
Đứa Bé Bị Bỏ Rơi
Khi cô nghe tin người mẹ qua đời, cô vừa khóc vừa chạy đến với tôi trong đêm
hôm đó.
"Mẹ con đã sống đau khổ suốt cuộc đời bà. Bà bị bệnh lâu ngày và cuối cùng
bà đã đi vào cõi tối tăm mà chưa được biết Ngài. Nhưng tại sao Mục sư lại muốn
con giúp ba con là người đã làm khổ suốt cuộc đời mẹ con. Tại sao ba con được gặp
Ngài và được vào nước thiên đàng? Con không muốn làm việc đó. Nếu Ngài cứu ba
con, thì Ngài không công bằng."
Một trong những đứa con gái thuộc linh của tôi đã kiên quyết cưỡng lại trong
dòng nước mắt. Nhưng tôi phải kể cho cô biết tấm lòng của Ngài. "Con gái
yêu dấu của ta, Ngài biết tấm lòng đau đớn của con. Khi con kêu khóc với vết thương
sâu trong lòng con, thì Ngài ở đó với con và khóc với con. Con không nhớ ta với
con đã đến gặp mẹ con và đã cố giúp bà tiếp nhận Ngài hay sao? Nhưng bà cứ nấn
ná chờ chồng đến nỗi bà không chịu tiếp nhận Ngài làm Chúa đời mình. Nếu ba con
đã gặp Ngài trước đây, liệu ông có bỏ rơi gia đình như ông đã làm hay không?
Ngài đã biết tội lỗi của ba con và Ngài đã tha cho ông rồi. Khi Ngài chịu chết
trên thập tự giá, Ngài đã mua chuộc hết thảy tội lỗi cho mọi người rồi. Con có
quá công chính đến nỗi không thể tha thứ cho chính ba con sao? Khi Ngài thấy một
người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Ngài đã phán với những thầy
thông giáo và người Pha-ri-si, "Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy
ném đá chị ấy trước đi." Nếu con thực sự yêu Đấng đã chết vì tội của con
trên thập tự giá, con sẽ thấy rằng đưa được một linh hồn đến với Ngài là quí
báu đối với Ngài rồi." Tôi đã cầu nguyện với cô để xin Chúa chữa lành vết
thương sâu trong lòng cô. Cô đã không thể tha thứ cho quá khứ khó tha của cha
cô.
Một ngày hè trước đây khi cô còn ở lớp hai, cô thấy mẹ cô khóc khi cô đang nằm
trong vòng tay mẹ. Cô yêu mẹ và hỏi mẹ, "Mẹ ơi, mẹ ơi, tại sao mẹ khóc? Có
ai làm mẹ đau không? Bà trấn an cô và nói, "Mẹ không sao. Mẹ chỉ buồn
thôi."
"Tại sao? Tại sao mẹ khóc? Có phải mẹ xem phim buồn? Ai làm cho mẹ buồn?
Con sẽ trả thù người đó cho mẹ. Mẹ ơi, đừng khóc nữa." Khi nói với mẹ như
thế, cô cũng òa ra khóc. Mẹ cô càng khóc lớn hơn và ôm chặt lấy cô.
Cô thấy mẹ khóc nhiều lần nữa. Cô cứ nhắc lại với mẹ là sẽ trả thù cho người
nào đã làm mẹ khóc. Vài năm sau cô khám phá ra rằng ba cô là người thường đi xa
làm ăn đã có ngoại tình. Lúc đó là kỳ nghỉ hè khi cô đang học lớp hai. Những
chuyến đi xa làm ăn của ba cô tăng lên nhiều hơn và lâu hơn. Một ngày kia sau bữa
ăn tối, mẹ cô đã đưa cô đến một khu phố xa lạ. Bà dừng lại ở một ngôi nhà sau
khi đi bộ một khoảng đường.
Mẹ cô bảo cô gõ cửa ngôi nhà và hỏi, "Có ba tôi ở đây không?" "Nếu
ông ấy bước ra, con hãy trao thư nầy cho ông." Sau khi nói như vậy rồi, bà
vội vã bỏ đi. Cô rất bối rối. Nhà nầy là của ai? Tại sao mẹ cô nói ba cô đang ở
đây? Khi cô thấy bảng tên gắn trên cửa chính, cô thấy đó là tên của ba cô. Cô
gõ cửa và kêu lớn, "Có ba của tôi ở đây không?"
Cô nghe có tiếng người từ trong nhà bước ra. Đó là một người đàn bà cao hơn mẹ
của cô mở cửa ra và hỏi cô tìm ai. Khi cô nói muốn gặp ba cô, bà nhìn cô một
lúc rồi bước vào trong nhà. Vài phút sau, cô nghe tiếng cãi nhau trong nhà. Sau
một lát nữa, ba cô bước ra ngoài cửa. Cô rất ngạc nhiên thấy ba của cô ở đây.
"Ba ơi, nhà nầy của ai? Tại sao ba ở nhà nầy?" Ông không trả lời nhưng
đã hỏi cô đi với ai.
Cô bảo cùng đi với mẹ. Cô trao cho ông lá thư của mẹ, lúc nầy lá thư đã ướt đẫm
mồ hôi trong tay cô. Ba cô lặng lẽ cầm lấy bức thư và vỗ vào đầu cô. Lúc nầy cô
vẫn còn sửng sốt. "Đây là nhà bạn của ba và ba sẽ sớm về nhà. Hãy đi và
nói cho mẹ con biết."
Cô thưa vâng với ba, nhưng lòng vẫn hoang mang khi cô đi xuống đường phố. Cô đã
thấy ba cô mặc bộ thường phục quen thuộc khi ông đi ra gặp cô. Đó là bộ đồ mẹ
cô đã may cho ông. Cô nghĩ rằng có thể ông đã mượn bộ đồ người bạn của ông. Cô
bước xuống đường, mẹ cô đang chờ đợi cô. Cô thưa với mẹ là ba sớm trở về nhà.
Trên đường về nhà, cô hỏi mẹ nhiều câu hỏi lắm. "Mẹ ơi, mẹ, tại sao ba lại
ở nhà bạn sau chuyến đi làm ăn xa? Tại sao ba không về nhà?" Mẹ cô không
trả lời cô. Bà cứ lặng thinh.
Việc nầy tái diễn mấy lần. Khi lớn lên, cô nhận biết rằng ba cô đã có một người
vợ khác đang ở một ngôi nhà khác. Khi cô lên Trung học, mẹ cô đã nắm tay cô dắt
cô đến ngôi nhà lần nữa mặc dầu cô miễn cưỡng ra đi.
Lần nầy là một ngôi nhà khác, to lớn hơn ngôi nhà trước. Cô bấm chuông với lá
thư của mẹ trên tay. Một lát sau, một nữ sinh bước ra và hỏi, "Bạn đi tìm
ai?" Cô trả lời, "Tôi tìm ba tôi." Khi cô nữ sinh thấy tên ba
cô, cô ấy đã la lên lời rủa sả. "Ông ấy không phải là ba của mầy. Hãy đi đi."
Cô ấy đóng cửa lại.
Cô nhận biết ngay những người nầy đã làm cho mẹ cô khóc và họ là kẻ thù của cô.
Cô đẩy cửa vào nhà và hét to trở lại, "Mầy là đứa con gái tồi. Ông ấy là
ba tao, không phải của mầy đâu. Hãy trả ba lại cho tao."
Khi cô la to lớn tiếng, cô nữ sinh đã chống trả lại. Họ nắm lấy nhau và lăn ra
trên đất. Tiếng nói của người đàn bà, một giọng nói quen thuộc vang lên ngăn đôi
hai cô gái nhỏ. Họ nhìn chằm chằm vào nhau và khóc rống.
Cô cảm thấy mình là nạn nhân. Vì những người nầy mà mẹ cô đã khóc lóc nhiều lần.
Bây giờ cô nữ sinh kia lại dám nói ba cô không phải là ba của cô. Như vậy là
không được. Khi ba cô bảo cô đi, cô đã không chịu và nhìn họ chăm chăm. Ông đã
thuyết phục cô và dắt cô ra tới chỗ mẹ cô đang đứng đợi ở góc đường. Mẹ cô thấy
cô khóc, những vết bầm từ dấu những móng tay hằn trên mặt cô, tóc cô bù xù. Mẹ
cô đã khóc và ba cô đứng nhìn cũng khóc theo.
Ngày hôm đó, Chúa chắc đã biết nỗi buồn và những dòng lệ nóng của bà mẹ và cô
con gái.
Khi cô từ giã khu phố xa lạ đó cùng với mẹ, cô đã yêu cầu ba cô đi theo với cô.
Nhưng ông đã ở lại, vừa rờ đầu cô vừa nói lời tạm biệt.
Ông đã trở lại ngôi nhà của cô nữ sinh. Điều đó càng làm cho bà mẹ và cô gái buồn
thêm sâu nặng trong lòng. Họ đã khóc suốt chặng đường trở về nhà. Những vết sẹo
hằn sâu hơn. Cô cảm thấy bị phản bội bởi chính người cha thân yêu nhất của
mình.
Từ đó, tâm trí cô đã quyết để trả thù cho nỗi buồn của mẹ. Cha cô có tên đứng đầu
danh sách, kế đến là người đàn bà cao cao và sau đó là cô con gái của họ. Thỉnh
thoảng, ba cô trở về nhà thăm, nhưng ông không còn là người cha như trước. Cô
không nói chuyện với ông và thậm chí không muốn nhìn mặt ông.
Trong ngày tốt nghiệp Tiểu Học, ba cô không đến dự bởi vì ông đã đến dự lễ tốt
nghiệp của cô nữ sinh kia. Thời ấy, những ngày lễ tốt nghiệp Tiểu Học đều được
tổ chức cùng một ngày.
Thời gian trôi qua, cô trông mong tình yêu vốn đã trống rỗng lâu ngày. Sau đó
cô lấy chồng và đến Mỹ. Cô gặp tôi vào Tháng Chín năm 1988. Cô đã nhận Ngài làm
Chúa và Cứu Chúa của mình.
Mẹ cô cũng đến Mỹ và sống với em trai cô. Một ngày kia, mẹ cô bị tai biến vì áp
huyết cao. Từ đó bà nằm mãi trên giường. Ba cô sống một mình sau khi người vợ
bé qua đời tại Đại Hàn. Cô và em trai cô nghĩ đến việc đưa ba cô đến sống với mẹ
trong những ngày cuối đời của họ. Nhưng bà nằm bại liệt trên giường và việc đoàn
tụ đó đã không xảy ra. Ai hiểu được cuộc đời buồn đau của mẹ cô hơn năm mươi năm
qua?
Sau ba năm cô con gái thuộc linh của tôi đã gặp Ngài, mẹ yêu của cô đã chết vào
tháng Giêng năm 1992. Bà muốn sống với người chồng cũ trước khi chết, nhưng giấc
mộng đó đã không thành. Ngày đưa đám tang của bà là một ngày mưa dầm giông bão.
Cô đã thấy tấm lòng đau buồn của Ngài về sự chia lìa vĩnh viễn với người mẹ
không bao giờ được nắm lấy tay Ngài.
Chúa đã cùng khóc với cô, người đã biết nỗi buồn thiên thu trong ngày tang lễ.
Cô đã đau đớn về mẹ và những nỗi khổ tâm trong lòng mẹ suốt đời bà. Hơn thế nữa,
cô rất buồn vì bà đã bị phân cách mãi mãi khỏi sự an ủi và thái an trong cõi vĩnh
hằng. Cô đã gặp ba cô trong ngày an táng, nhưng cô không đủ can đảm để nhìn
ông. Sau đó em trai cô cho biết cha cô đã đau khổ, ăn năn và đấm ngực. Ông biết
lỗi của ông.
Mẹ cô đã sanh trưởng trong một gia đình giàu có. Bà chưa bao giờ chịu khổ cho đến
khi lấy ba cô. Bà là người tử tế, yêu thương, và đáng kính, nhưng ông đã làm bà
đau khổ suốt đời. Khi ông nhìn lại gương mặt của bà lần cuối, ắt hẳn ông đã cảm
thấy đau lòng. Trời hôm đó mưa lớn quá đến nỗi người ta không thể chôn được
quan tài. Rồi cô thấy ba cô ôm lấy quan tài và khóc thảm thiết trong mưa. Ông
không còn là một kẻ thù, ông chỉ là một ông già cô đơn. Ông chỉ là một linh hồn
buồn bã khác nữa mà thôi.
Thời gian dài trôi qua. Khi cô đến với ông, cô chỉ là cô gái nhỏ. Rồi cô lớn
lên, cô yêu thương ông thật nhiều. Khi cô nắm lấy bàn tay run rẩy của ông và
nhìn vào mắt ông, cô đã thấy mắt ông ửng đỏ vì khóc và những mạch máu vỡ ra.
Ông chào cô, nắm tay cô buồn bã. Vài cái răng còn sót trong miệng đã làm cho
ông trông càng cô độc và buồn bã hơn. Trên đường về, cô nắm lấy tay ông và mời
ông đến nhà cô ở Los Angeles. "Ba ơi, hãy đến nhà con và nghỉ ngơi với
chúng con bao lâu ba muốn. Con sẽ đưa ba đi Bác sĩ để chữa mắt và làm răng."
Ông nói đi nói lại, "Cảm ơn con."
Ở phi trường khi cô từ giã ông, một người cha nay đã ngoài tuổi bảy mươi, cô nhận
biết rằng ấy là Chúa đã khiến cho cô nói những lời đó với cha cô. Ngài đã chữa
lành những vết thương sâu của cô trong quá khứ, chữa lành cho cô về nỗi xấu hổ
về bà vợ bé của cha cô và thậm chí Ngài đã chữa lành nỗi cô đơn của cô trong
ngày hôm đó.
Cô đã nghĩ về cha của cô. Ông mất cả hai người vợ. Chắc hẳn ông buồn bã lắm. Cô
đã quyết định an ủi cha cô và dẫn dắt ông đến cùng Chúa.
Năm vừa qua khi cô đến thăm viếng Đại Hàn, cô đã bắt một nhịp cầu mới của
"sự tha thứ và giải hòa" với người em khác mẹ của cô sau ba mươi hai
năm dài xa cách. Điều đó chỉ xảy ra được nhờ ân điển dư dật của Ngài