Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Wednesday, October 3, 2012

Người Đàn Bà Hạnh Phúc --9


Giỏ Đầy Thứ Chín: VÀ RỒI, SAU ĐÓ

Những Con Đỏ Ngài Giao Tôi Chăm Sóc 

Người Phụ Nữ Cõng Chồng Trên Lưng


Những Con Đỏ Ngài Giao Tôi Chăm Sóc

“Thưa chị, chúng tôi gặp nhiều rắc rối tại Trường. Tôi xin chị quay về đây và tiếp quản chức Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Trường. Chị là người duy nhất trong gia đình có đủ khả năng để kế nhiệm chức vụ. Thưa chị, chị biết việc này quan trọng ra sao. Xin hãy quay về và giúp tôi với.” Đó là cú điện thoại từ người bà con của tôi, người đang giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Trường Đại Học ở Đại Hàn..


Nhưng sau mười lăm năm trở nên nhỏ bé và nghèo hèn nơi đất Mỹ, giờ đây tôi đã hiểu được ý nghĩa thật của niềm hạnh phúc. Chức vụ mà tôi được mời làm ở Đại Hàn chẳng có chút ý nghĩa gì đối với tôi.
Từ lúc trở về từ Tucson, Arizona năm 1983, sức khỏe tôi không được tốt, chủ yếu là do bệnh tiểu đường gây ra, nhưng nhờ ơn Chúa tôi vẫn có thể làm Mục sư Cố vấn cho một số nhà thờ trong khoảng thời gian chín năm. Tôi mất tất cả của cải và danh vọng mà trong quá khứ tôi đã vui hưởng, nhưng thay vào đó là niềm hạnh phúc thật mà tôi có được khi khám phá ra những kho tàng quý giá trong lòng tôi. Tôi sống trong hạnh phúc tại căn hộ nhỏ của tôi ở Los Angeles.


Mỗi buổi sáng khi tôi mở cửa sổ của phòng mình, tâm hồn tôi ngập tràn sự vinh hiển và sự phong phú từ nơi Ngài. À thì ra, niềm hạnh phúc thật không đến từ sự giàu có và danh vọng. Hạnh phúc là vô hình, nhưng với niềm vui mừng, bạn có thể cảm nhận và rờ đụng được nó. Đó là phước hạnh của sự bình an và sự yên nghỉ thật nơi Chúa.
Tôi sống mỗi ngày như đứa bé sống trong vòng tay yêu thương của mẹ; tôi được bảo bọc bởi tình thương của Ngài, giống như mặt hồ phẳng lặng trở lại vào lúc hoàng hôn sau khi một cơn giông thổi qua. Tôi sống trong niềm vui và sự cảm tạ với tấm lòng chỉ tin cậy nơi Chúa mà thôi. Mười lăm năm dài cực khổ nơi đồng vắng là khoảng thời gian giá trị và quý báu nhất để tôi trở nên trống không và thấp bé trong ơn của Ngài.
Các con tôi tất cả đều đã trưởng thành và có gia đình riêng. Nhưng tôi không đơn độc trong căn hộ của mình vì ở đấy có tới hai người. Sự sáng của Ngài tràn ngập trong tâm hồn tôi, xua tan tất cả niềm kiêu hãnh, sự ghen tỵ, sự cô đơn, những thành kiến, sự nóng giận, lòng ghen ghét cùng mọi lời ta thán.


Ngài sửa soạn tôi tại nơi đồng vắng cho đến lúc tôi được sáu mươi chín tuổi. Ngài đưa đến cho tôi những con chiên lạc mất và bảo tôi chăm sóc chúng. Vào thời điểm ấy có tin đồn là Chúa Giê-xu sẽ tái lâm vào tháng Chín, 1988. Hành trình trên đất của tôi chưa chấm dứt, nhưng tôi ao ước được về nhà trên trời biết bao. Lòng tôi khao khát được sống bên Đấng mà tôi đã gặp năm hai mươi ba tuổi. Tôi bị ghép tội đã tung ra những tin đồn thất thiệt đơn giản chỉ vì tôi trông mong Ngài trở lại. Nhiều bạn bè và nhà thờ hiểu lầm ý của tôi.


Lúc tôi được bảy mươi lăm tuổi, mười năm sau biến cố đó, lòng tôi càng mong mỏi gặp Chúa còn nhiều hơn trước, như cô dâu chờ đợi chú rể đến đón mình. Tôi muốn mọi người hiểu rõ rằng người đầy tớ Chúa cao tuổi này ao ước được ở với Chúa hơn bất cứ điều gì khác; đó là hy vọng duy nhất của tôi.
Vào mùa hè năm những tin đồn được tung ra, tiếng kèn báo hiệu “sự trở lại của Ngài” đã thức tỉnh nhiều linh hồn đang ngủ say. Ngài đem đến cho tôi những phụ nữ chưa tin Chúa nhưng có tấm lòng muốn tìm kiếm Ngài. Họ che đậy con người mình bằng sự học thức, nền văn hóa, sự giáo dục và hình dáng tao nhã bên ngoài. Lòng họ chất chứa niềm kiêu hãnh, sự tự tin, lòng tự trọng, tự tôn và sự giả hình, nhưng họ không thấy được con người của chính mình. Đằng sau những khuôn mặt được trang điểm đẹp đẽ là những vết sẹo hằn sâu của niềm kiêu hãnh và những niềm đau được chôn giấu. Họ muốn thoát khỏi hoàn cảnh của mình, nhưng những niềm đau của sự bất hạnh đã khiến họ sống một cách âm thầm lặng lẽ. Những điều đó được sản sinh ra từ sự tự tin được giấu kín trong lòng họ. Họ trông có vẻ giàu có, nhưng thật ra họ nghèo nàn và cô đơn. Họ đang sống thiếu hạnh phúc.


Những phụ nữ ở Tucson, Arizona đã trung thực khi nhìn biết rằng họ đang ở tận đáy cuộc sống và họ đối chọi nhau không cần phải giấu giếm. Nhưng những người phụ nữ có học thức này phải chịu đựng nhiều hơn gấp bội vì lòng kiêu hãnh về nhân cách, nền văn hóa họ có được cùng lòng tự tin của họ. Dù giàu hay nghèo, có học hay dốt nát, không có Chúa chúng ta sẽ như con chiên lạc.


Một số người đi nhà thờ, một số thừa hưởng niềm tin từ cha mẹ, một số đã làm công việc Chúa trong một thời gian dài. Nhưng tấm lòng của họ không khác gì những chiếc vỏ trống rỗng, họ hoàn toàn không có lòng trông cậy nơi sự dẫn dắt của Chúa. Họ sống bằng những suy nghĩ và những quyết định của riêng mình. Họ chỉ tin Chúa bởi sự hiểu biết của trí óc, còn trong lòng họ không hề có sự tin cậy Chúa. Họ cần phải gặp Đấng mà tôi đã gặp năm hai mươi ba tuổi.
Việc đầu tiên Ngài khiến tôi làm đó là trở thành bà đỡ cho những con chiên lạc đó được sanh ra một lần nữa. Tôi bắt đầu gặp gỡ họ khi Ngài hướng dẫn tôi đến với từng người một.


Việc tin Chúa bởi đức tin hoàn toàn khác với việc tin Ngài bởi trí hiểu. Đó chính là sự khác nhau giữa sự sống và sự chết, thiên đàng và địa ngục. Bạn thường đi nhà thờ và làm nhiều việc lành, nhưng bạn không có mối thông công với Chúa. Chính vì điều ấy mà bạn không có một mối liên hệ sống động với Ngài. Môi miệng bạn xưng rằng Ngài đã chết vì tội lỗi của bạn nhưng tận trong sâu thẳm của lòng mình, bạn không tin điều đó.


Tôi bảo họ hãy soi mình trong tấm gương của Mười Điều Răn mà Chúa đã khắc vào bảng đá cho dân Ngài. Trong quá trình nhìn nhận lại con người mình dưới sự dẫn dắt của ánh sáng Chúa, họ bắt đầu nhận ra những tội lỗi kinh khiếp của mình. Họ thấy rằng không có lối thoát nào khỏi cái hố sâu vô cùng của tội lỗi mà không cần đến huyết cứu chuộc của Ngài. Sự sáng của Ngài đã khiến họ ăn năn từng tội lỗi dù nhỏ nhặt trong lòng họ.
Họ thật có phước khi được tái sanh và trở nên con cái của Ngài, đó là phước hạnh mà không có điều gì của trần gian này có thể mua được. Làm sao một người có thể đi và chạy nếu không được sanh ra? Và nếu không nhận được sự sống của Ngài thì làm sao người ấy có thể từ bỏ bản ngã của mình để đi trên con đường hẹp dẫn tới Thiên quốc? Từ trong bóng tối, tất cả những người ấy bước ra và được sanh lại như những chú gà con vừa mới nở. Chính tình yêu sâu xa và lòng thương xót vô biên của Đức Chúa Trời đã thay đổi con người họ. Họ trông thật đẹp đẽ khi được tái sanh bởi sự sống của Ngài.
Ngài giao cho tôi một nhóm tín hữu con đỏ và hỏi tôi, “Con có thể cho họ uống sữa và thay tả cho họ giúp Ta không?” Tôi chỉ có thể trả lời, “Thưa vâng” như một người đầy tớ vô dụng.


Họ có những hình hài khác nhau và mỗi người một cách, giống như khuôn mặt của con người, không ai giống ai: người cười, người khóc, người vấp ngã, người mù lòa và người tức giận. Tôi đánh thức họ dậy để họ khỏi sa ngã. Họ bước đi như những chú vịt con xấu xí, nhưng vẫn cố xếp hàng trước cổng vào đường hẹp dẫn tới sự sống vĩnh hằng.
Đến một ngày nọ, tôi quá mệt mỏi với việc chăm sóc họ và tôi quyết định cùng đi với một người bà con ở Đại Hàn đến Hawaii để nghỉ ngơi một vài ngày. Đã đến lúc tôi phải rời Los Angeles. Tôi để mọi gánh nặng lại đằng sau để đi đến Hawaii. Tôi rất phấn khởi và hài lòng với chuyến đi. Tôi đến nơi và thả mớ hành lý của mình tại phòng khách sạn. Và rồi, tôi nghe tiếng Ngài gọi tôi.


“Con đang làm gì vậy? Hãy cầu nguyện ngay cho họ đi!”
Lập tức tôi cầu nguyện cho họ. Trong lúc cầu nguyện, Ngài cho tôi thấy hình ảnh của những em bé bệnh hoạn. Chỉ mới vài giờ trước tôi còn cho họ uống sữa và thay tả cho họ, nhưng Ngài cho tôi thấy họ vẫn còn đau đớn và quằn quại trong bệnh tật. Niềm ao ước có một chuyến đi thư giãn của tôi tan vỡ. Cha mẹ nào có thể vui vẻ đi chơi khi biết con mình đang bị bệnh ở nhà. Chuyến đi của tôi không còn là chuyến đi nghỉ mát nữa. Tôi cầu nguyện cho họ tại phòng khách sạn hầu hết thời gian ở tại Hawaii.


Tôi dạy dỗ một người, nhưng cô ta chóng quên những gì được dạy. Tôi đỡ người này dậy thì người kia ngã xuống, những người cứng đầu thì gây rối bằng cách kháng cự. Chúa ơi, sao Ngài lại giao cho con những đứa con bệnh hoạn như thế này để gây phiền muộn cho cuộc sống của con? Ở tuổi này, con cần được nghỉ ngơi. Con có cần phải trải qua những khó khăn trắc trở này không? Xin hãy thương xót con Chúa ơi! Nhưng Ngài không rút lại ý định của mình. Ngài tiếp tục phán với tôi, “Họ là những con chiên mà Ta yêu quý. Nếu con yêu Ta thì hãy chăn chiên Ta.”
Mỗi khi tôi có cảm tưởng muốn gởi những đứa trẻ ấy vào trại mồ côi thì Ngài lại đến và nhắc nhở tôi, “Họ là những con chiên bé bỏng mà Ta đã cứu chuộc bằng chính huyết của mình.”


Trước sự công bình của Ngài, từng chút một họ bắt đầu nhận ra sự lệch lạc của mình và ăn năn tội để được huyết của Ngài thanh tẩy. Lần hồi, sự kiêu ngạo, sự giả hình, sự ghen tỵ và sự tham lam được lột bỏ khỏi tấm lòng của họ. Họ đi từng bước về phía trước khi đôi mắt thuộc linh của họ mở ra. Khi họ nhìn thấy mình mỏng manh chẳng khác nào làn sương sớm, họ thừa nhận rằng họ không thể làm gì nếu không được Ngài giúp đỡ. Họ bắt đầu hiểu ra rằng chính tội lỗi đã chất chứa trong lòng họ sự ghen ghét và khiến họ không thể tha thứ cho nhau. Vì thế, họ cắt đứt sợi dây ghen ghét và ôm lấy nhau trên chiếc cầu của sự hoà giải.


Những tấm lòng hay xét đoán và phê phán được thay đổi khi họ nhận thấy sự thô bỉ và những thiếu sót của chính con người mình. Họ bắt đầu lánh xa sự đam mê xác thịt, lòng tham của mắt, sự kiêu ngạo của đời, những ham muốn cùng những sự tham lam đời này vốn từ lâu đã là một phần của họ. Qua cánh cửa của niềm hy vọng, họ hình dung ra phần thưởng đời đời trong vương quốc của Ngài mà Ngài đã hứa cho họ.
Món quà đặc biệt mà Ngài dành cho tôi khi Ngài đem con gái út của tôi về với Ngài là Ngài sử dụng tôi một cách đầy quyền năng trong việc chăm sóc bầy chiên này. Những tội lỗi nhỏ cùng những tâm linh nhơ nhuốc mà thế gian xem nhẹ nay được phơi bày ra trước mắt Ngài. Thanh gươm hai lưỡi của Ngài đã chia cắt hồn linh họ, đã dạy họ biết tình yêu thương và sự công bình dẫn tới con đường thẳng và hẹp của Ngài. Bầy chiên con được ban phước khi chúng ăn năn và xưng ra tội lỗi mình. Chúng được dẫn tới đồng cỏ xanh tươi và mé nước bình tịnh.


Ánh sáng chiếu soi tâm hồn họ và họ được biến đổi thành những người phụ nữ hạnh phúc ngày càng bước đến gần với Chúa hơn. Họ đến với tôi mỗi ngày và được huấn luyện trong ba năm. Như đã làm tại Tucson, Arizona, tôi cho họ ăn trưa, ăn tối và dạy họ đức tin thật nơi đường lối Ngài. Chúng tôi cầm tay nhau trong nước mắt. Sự chết của tôi đã trở thành sự sống của họ. Bầy chiên còi cọc đang lớn lên từng chút một bởi tình yêu và sự công chính của Ngài. Qua tôi, Ngài thực hiện công việc của Ngài trong những con người ấy. Giữa tôi và họ không còn là quan hệ giữa Mục sư và Chấp sự nữa mà là giữa một người mẹ đức tin và con gái đức tin của mình.


Tôi thật cảm tạ Chúa vì mặc dầu Ngài đem con gái út tôi đi, nhưng Ngài ban cho tôi nhiều con gái đức tin để thay vào chỗ của cháu. Ngài an ủi tôi và bày tỏ tình yêu của Ngài cho tôi qua những đứa con ấy. Họ yêu thương tôi lúc tôi yếu đuối. Những lúc tôi phải đi qua trũng bóng chết, họ giúp tôi bằng những lời cầu nguyện chan đầy nước mắt.
Khi tôi không thấy đường, họ là đôi mắt của tôi và luôn sát cánh để giúp đỡ tôi. Khi tôi không thể uống nước, họ mớm cho tôi từng muỗng một trong nước mắt. Khi tôi khóc trong thất vọng, họ đến và tay trong tay, họ chia sẻ những ưu phiền của tôi qua hai hàng nước mắt. Khi mắt tôi hoàn toàn khép chặt, họ khóc với Ngài và xin được cho tôi đôi mắt của họ. Tôi có được những điều này là bởi tình yêu thương mà Ngài bày tỏ cho tôi qua những người con đức tin này.


Từ trong sâu thẳm của tâm hồn, tôi muốn một lần nữa dâng lời cảm tạ ơn Chúa.
Tôi muốn tuyên xưng đức tin của mình đối với Chúa khi tôi hát bản Thánh ca này:
"Tất cả bản thân con và những gì con có là do ân điển Chúa ban; con xin dâng lên Chúa yêu niềm vui, nỗi buồn, đời sống riêng mang; linh hồn con được rỗi suốt cõi vĩnh hằng, lòng con vui thỏa khi con diện kiến Thiên nhan."
“Cảm tạ Chúa yêu dấu của con!”


Người Phụ Nữ Cõng Chồng Trên Lưng

“Thưa Mục sư, đây là món quà nhỏ chúng con xin gửi tặng Mục sư. Xin hãy nhận lấy tấm lòng của chúng con.” Họ trao món quà cho tôi bằng hai tay. Bên trong chiếc hộp được gói giấy xinh xắn là một chiếc đồng hồ đeo tay. Tôi là công cụ của Ngài và giờ đây Ngài thưởng cho tôi.
Chuyện tưởng chừng như mới xảy ra hôm qua khi tôi quỳ trước chồng của cô van xin anh tha thứ cho cô vì tôi không muốn con gái đức tin của tôi đau đớn. Mắt tôi tuôn tràn giọt lệ khi đứng trước mặt tôi bây giờ là hai con người hoàn toàn khác trước. Đó là những giọt nước mắt ấm áp tuôn ra từ lòng biết ơn Đấng đã giải cứu họ khỏi bóng đêm mịt mù và chăm sóc gia đình họ.


Tôi gặp cô gái vào tháng Mười Một năm 1991. Lần đầu tôi trông thấy cô, cô gầy gò đến mức tưởng chừng gió có thể thổi bay đi. Sự phiền muộn cùng sự chịu đựng kéo dài khiến cho đôi mắt của cô không còn sức sống nữa. Cô sống mà dường như đã chết. Tôi lắng nghe câu chuyện của cô mà không ngăn được nước mắt.
Cô là con út trong một gia đình khá giả có bảy anh chị em. Cô lớn lên trong tình yêu thương và sự đùm bọc của các anh chị trong nhà. Tại Trường Cao đẳng, cô được giới thiệu với một người mà sau đó là bạn trai của cô, và cô đã lấy anh ta trước sự phản đối của gia đình.


Sau này, người ta được biết rằng chồng cô bị tổn thương tình cảm nghiêm trọng vì bị mẹ hành hạ trong giai đoạn anh đang phát triển. Sau khi lập gia đình, tính tình anh trở nên dữ dằn và anh đánh đập vợ mình mỗi khi anh say rượu. Sự thù hằn vì thiếu tình thương giấu kín trong anh bấy lâu giờ đây lộ ra mỗi khi anh say rượu. Điều đó hoàn toàn trái ngược với thời niên thiếu của cô gái. Cô chết đi sống lại sau những lần bị ném vào góc nhà, bị đánh đập, tra tấn và làm nhục. Một hôm, anh muốn lấy món quà kỷ niệm bằng vàng của con gái đem bán để mua rượu. Đó là món quà cháu bé được ông ngoại tặng cho nhân dịp sinh nhật lần thứ nhất của cháu. Cô hỏi, “Anh còn muốn bán luôn cả quà sinh nhật của con mình để mua rượu uống sao?”


Lúc đó, đầu óc anh đã không còn tỉnh táo nữa. Thân hình nặng nề của anh lắc lư dữ dội và anh đã lấy cây vợt tennis đánh vào chân cô. Khi cô ngất xỉu trên sàn nhà, anh liền chộp lấy món quà và đi khỏi. Mãi đến ba năm sau, những vết bầm đó mới biến mất.
Một ngày nọ, anh lại về nhà trong tình trạng say khướt. Biết trước chuyện gì sắp xảy ra, trong lúc anh đang thay đồ, cô ẵm con và chạy trốn khỏi nhà với đôi chân trần giữa mùa đông giá lạnh. Anh đuổi theo cô và hét lớn, “Tao sẽ giết mày.” Cô nghĩ nếu chạy ra đường thì chắc chắn anh sẽ tóm được cô vì anh chạy nhanh hơn. Vì thế cô chạy lên tầng năm của khu cư xá và tìm một chỗ để trốn và cô tìm thấy một lò sưởi đốt bằng than. Cô chui vào trong với con mình và kéo nắp lò đậy lại. Cô hầu như ngừng thở khi nghe chồng mình tiến lại gần. Lần đầu tiên trong đời, cô khẩn cầu với một người nào đó, “Xin hãy giữ tôi an toàn ở đây.”
Cô không muốn đứa bé cất tiếng khóc và cũng không muốn chồng mình phát hiện ra chỗ ẩn núp của mình. Hơi nóng phả ra từ lò sưởi tưởng chừng như đang đốt cháy da cô. Bên ngoài lò sưởi, chồng cô đang tìm giết cô. Hơi nóng trong lò thật dữ dội hầu như muốn thiêu sống cô. Cô cố lấy quần áo mình bọc lấy con và che đậy cơ thể mình lại. Chồng cô tìm cô khắp nơi với cây đèn pin nhưng không phát hiện ra cô. Anh buông lời chửi thề và bỏ đi xuống lầu. Cô nghe tiếng cửa nhà mình đóng lại. Cô chui ra khỏi lò sưởi cùng với con mình và gục đầu vào chiếc mền của đứa bé và khóc nức nở.


Thói say rượu và đánh đập vợ lại tiếp diễn. Cuộc sống của cô là sự chết và nỗi thống khổ kéo dài vô tận. Cô muốn ly dị anh, nhưng cha cô phản đối quyết liệt và nói rằng, “Đợi tao chết rồi mày muốn làm gì thì làm.” Cô không còn biết phải sống như thế nào nữa. Cô không thể tiếp tục sống với chồng mình và con đường duy nhất mà cô nghĩ tới là tìm đến cái chết. Cô mua và để dành nhiều viên thuốc ngủ. Cô quyết định uống thuốc ngủ để có thể chết trong khi ngủ. Nhưng khi cô sắp sửa bỏ thuốc vào miệng thì đứa bé chợt tỉnh giấc và mỉm cười với cô.


Cô đổi ý. Nếu mình chết đi, mình sẽ không còn phải đau đớn nữa, nhưng còn con mình thì sao? Cô khuỵu xuống và khóc trên người đứa bé. Cô cố tự tử nhiều lần nhưng không thành công. Mùa hè năm 1982, cô theo chồng sang Mỹ. Tại đó, niềm hy vọng có thể trông cậy nơi cha mẹ cô tan biến. Sự tuyệt vọng lại tiếp tục kéo dài. Bóng tối lại bao phủ cô thêm chín năm nữa trong sự hành hạ và nỗi cô đơn.


Đó không khác nào địa ngục trần gian. Nếu có ai hỏi cô, “Chị có thấy Địa ngục bao giờ chưa?” thì cô sẽ trả lời không chút do dự là, “Tôi không những thấy Địa ngục mà còn sống trong đó nữa kia.” Cô không có bạn bè hay ai đó ở bên để giúp đỡ. Cô sống trong nỗi sợ hãi và sự hành hạ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đôi mắt cô thờ thẫn và cô chết lần mòn ở tuổi ba mươi.
“Tại sao mình phải sống như thế này?” Cô tự hỏi mình mỗi ngày. Ngày mai là một từ quá xa vời với cô. Hôm nay, chính giờ này đang là niềm đau của cô. Cô mỏi mệt và cô đơn trong chín năm. Cô muốn gặp ai đó vì cô biết mình không thể tự sống còn được. 
Cô tìm kiếm một người có thể chia sẻ thời gian với cô. Được sự giúp đỡ của một người nào đó, cô được dẫn dắt đến một nhà thờ Tin Lành Đại Hàn ở miền Nam Los Angeles. Ngày đầu tiên cô đến nhà thờ, có một phụ nữ nhẹ nhàng đến và nắm tay cô sau giờ thờ phượng. Bà và chồng bà giúp cô đi nhà thờ. Nhờ người phụ nữ ấy mà cô gái tội nghiệp đến được căn hộ của tôi.


Trong hàng giờ đồng hồ, tôi lắng nghe cô kể câu chuyện về cuộc sống trong nỗi khiếp sợ và sự dày vò thể xác kéo dài mười bảy năm của mình. Khi tôi nhìn thấy cô khóc, tim tôi đau nhói và tôi thấy xót xa cho cô. Và cô đã trở nên con cái của Ngài. Kể từ đó, cô bắt đầu cầu nguyện cho người chồng mà cô căm ghét tới tận xương tủy của mình.
Việc đó không dễ vì những vết thương trong lòng cô đã trở nên quá lớn. Nhưng đến một hôm, tình yêu của Ngài đã giúp cô có thể tha thứ cho chồng mình một cách trọn vẹn. Cô cầu nguyện trong nước mắt trước mặt Chúa. 


“Chúa ơi, bây giờ con đã biết rằng chính vì tình yêu và sự đụng chạm của Ngài mà Ngài đã để con trải qua cuộc sống đầy đau thương, dày vò và thử thách này như một tội nhân. Nếu không có những thử thách này thì có lẽ con đã sống theo ý riêng của mình và sẽ phải hư mất đời đời nơi địa ngục. Giờ đây, sau sự thử thách ấy, Ngài giải cứu con từ nơi tối tăm và đội cho con mão triều của tình yêu thương. Đó là ơn phước mà Ngài đã dành cho con. Con cảm tạ Chúa nhiều lắm. Trong mọi từng trải của mình, con đã thấy được chính sự đụng chạm đầy tình yêu thương của Ngài đã đem con đến với Ngài. Con nhận ra rằng chồng con đã được sử dụng như một công cụ để Ngài giải cứu một tội nhân như con đây. Giờ thì Chúa ơi, con đã tha thứ cho chồng con và bẻ gãy xiềng xích của lòng ghen ghét. Xin Ngài hãy cứu lấy linh hồn của chồng con.”
Sau một tháng cầu nguyện không ngơi nghỉ, Ngài đã thấy những giọt nước mắt của cô và đáp lời khẩn cầu của cô. Chồng cô đã bước từ bóng tối ra ánh sáng. Anh ăn năn tội lỗi mình và kiểm soát hành vi và việc uống rượu của mình. Anh bắt đầu đến với Ngài trong sự sáng. Tình yêu của Ngài là nguồn hạnh phúc thật đã cứu gia đình cô và chữa lành những vết thương cùng những vết sẹo của mọi người. Sự an ủi, sự bình an của Ngài đầy ắp linh hồn họ như ánh nắng mặt trời chan hòa trên vạn vật khi xuân sang. Bây giờ họ thật sự là một gia đình hạnh phúc. Họ hầu việc Chúa với những điều tốt nhất họ có được, giống như bà Ma-ri đã đập vỡ chai dầu thơm vì sự công bình và vì nước của Ngài.


Hãy ca ngợi Chúa vì quyền năng giải cứu linh hồn của Ngài. Ngài đã đem tội nhân từ bóng tối đến sự cứu rỗi sáng láng. Cô mỉm cười và kể cho tôi nghe giấc mơ của mình. 
Cô cõng chồng mình trên lưng đi băng qua dòng nước chảy xiết. Cô qua được dòng nước và có người hỏi, “Có phải người cô cõng trên lưng là một con người vũ phu không?” Cô đáp trong lòng rằng, “Bây giờ thì không phải nữa” và tiếp tục cõng chồng bước đi. Đó là một cảnh tượng thật đẹp đẽ biết bao