Galileo Galilei ra đời ngày 8 tháng 1 năm 1642. Ông vừa là nhà thiên văn học, vật lý học, toán học và triết học người Ý, là người đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng khoa học. Các thành tựu của ông gồm những cải tiến cho kính thiên văn và các quan sát thiên văn sau đó. Galileo đã được gọi là "cha đẻ của việc quan sát thiên văn học hiện đại", "cha đẻ của vật lý hiện đại", "cha đẻ của khoa học" và "cha đẻ của khoa học hiện đại." Stephen Hawking đã nói "Có lẽ hơn bất kỳ một người riêng biệt nào, Galileo chịu trách nhiệm về sự khai sinh khoa học hiện đại."
Vào năm 1609 Galileo khám phá trái đất xoay quanh mặt trời và ông không sợ đối đầu với giáo hội trong lúc đó không tin điều khám phá của ông. Vì muốn bênh vực sự thật ông đã phải trả một giá là suốt 9 năm bị quản thúc trong căn nhà và sau 24 ngày ngồi tù ông phải có một quyết định, hoặc là chối bỏ những gì đã tuyên bố, hoặc là chọn cái chết. Ông đã chọn lẽ phải.
Galileo đã bảo vệ thuyết nhật tâm, và tuyên bố rằng thuyết đó không trái ngược với các đoạn trong Kinh Thánh. Ông đồng ý với quan điểm của Augustine về Kinh Thánh: "Vì mọi ý tưởng trong Thánh Kinh không phải lúc nào cũng theo nghĩa đen, vì có những sách văn thơ, và những sách tiên tri bên cạnh những cuốn sách chỉ dẫn hoặc lịch sử." Những người viết Kinh Thánh đã viết từ quan điểm của thế giới trái đất, và từ quan điểm đó mặt trời mọc và lặn.
Thánh Kinh chính là lời của Đức Chúa Trời, những gì Thánh Kinh ký thuật lại là chân lý ngàn đời không sai trật, nhưng tiếc là giáo hội lúc bấy giờ đã tin theo truyền thuyết dân gian hơn là tin tưởng hoàn toàn vào Kinh Thánh. Nhà bác học Galileo là người đặt niềm tin vào Kinh Thánh, ngay cả việc tin rằng trái đất quay quanh mặt trời cũng không trái lại với lời của Thánh Kinh.
Kinh Thánh khẳng định trái đất tròn, khác với quan niệm của con người ngày xưa, khi khoa học và kỹ thuật chưa phát triển, không tin là quả đất tròn, mà là mặt phẳng bao la; thậm chí có người tin rằng quả đất nầy hình vuông. Thánh Kinh được chép cách đây 3500 năm và hoàn tất vào 2000 năm trước khi người ta phát minh ra kính hiển vi, viễn vọng kính, vệ tinh, và tất cả dụng cụ kỹ thuật tuyệt diệu khác để giúp chúng ta khám phá quả đất và vũ trụ. Những điều Thánh Kinh ghi lại đã làm cho các nhà khoa học kinh ngạc về sự chính xác của Kinh Thánh.
(1) Khi mô tả về mặt trời, Thánh Kinh ghi:
"Mặt trời khác nào người tân lang ra khỏi phòng huê chúc,
Vui mừng chạy đua như người dõng sĩ.
Mặt trời ra từ phương trời nầy,
Chạy vòng giáp đến phương trời kia;
Chẳng chi tránh khỏi hơi nóng mặt trời được." (Thi Thiên 19:5-6)
Các nhà thiên văn cho là câu Thánh Kinh nầy sai, nhưng nhờ có những phương tiện hiện đại mà các nhà khoa học gần đây đã khám phá ra rằng mặt trời di chuyển theo con đường vòng tròn trong không gian như lời Thánh Kinh đã chép. Điều nầy có nghĩa là dầu mặt trời là định tinh, và quả đất xoay quanh mặt trời, nhưng cả hệ thống thái dương hệ đều di chuyển trong không gian. Giống như khi chúng ta ở trong chiếc phi cơ lớn đang bay, chúng ta cảm thấy mình đang đứng yên, nhưng thật ra chúng ta đang di chuyển 1000 km/h. Hơn nữa, nếu ta hiểu lời Thánh Kinh nầy theo nghĩa bóng, thì câu Thánh Kinh nầy vẫn đúng. Vì người được Đức Chúa Trời dùng để viết Lời Thánh Kinh nầy là một thi sĩ, ông mô tả mặt trời trong cái nhìn của một nhà thơ. Như một văn sĩ nước ta mô tả hình ảnh của mặt trời lặn rằng: "Tà tà bóng ngả về tây". Bóng ở đây chính là mặt trời.
(2) Khi mô tả về trái đất, Thánh Kinh ghi: "Các ngươi không biết sao? Vậy thì các ngươi không nghe sao? Người ta há chưa dạy cho các ngươi từ lúc ban đầu? Các ngươi há chẳng hiểu từ khi dựng nền đất? Ấy là Đấng ngự trên vòng trái đất nầy, các dân cư trên đất như cào cào vậy. Chính Ngài là Đấng giương các từng trời ra như cái màn, và giương ra như trại để ở." (Ê-sai 40:21-22). Một câu Thánh Kinh khác được ghi khoảng 740 đến 680 trước Chúa Giáng Sinh: "Ngài đã vẽ một vòng tròn trên mặt nước, Cho đến nơi giới cực của ánh sáng và tối tăm giáp nhau." (Gióp 26:10) Trước khi Christospher Columbus khám phá Mỹ Châu, ai cũng nghĩ rằng quả đất hình phẳng. Chỉ có Thánh Kinh nói rõ quả đất hình tròn.
(3) Thánh Kinh nói rằng Chúa treo quả địa cầu trong khoảng không không. Trước khi Isaac Newton khám phá định luật sức hút của quả địa cầu. Người theo Ấn Độ giáo tin rằng quả đất giống là một khối nằm tựa vào lưng con voi khổng lồ hay nằm trên lưng của con rùa khổng lồ. Chỉ có Kinh Thánh nói rằng: "Chúa trải phương bắc của bầu trời trên khoảng trống, Chúa treo địa cầu lơ lửng trong không gian." (Gióp 26:7)
(4) Trước khi người ta phát minh ra viễn vọng kính, con người tin rằng họ có thể đếm được và đặt tên các vì sao. Một nhà thiên văn học và cũng là nhà toán học Hy Lạp (190 đến 120 BC) nói rằng có chính xác 1026 vì sao trên bầu trời. Nhà thiên văn học Đức Johannes Kepler (1571-1630 AD) đếm được 1006 vì sao. Trong khi đó nhà bác học Galileo, người khám khá ra quả đất tròn, và cũng là một tín nhân yêu Chúa, khám phá là có vô số những vì sao mà không người nào có thể đếm được, điều nầy được ghi lại trong Thánh Kinh, được chép trước đó hàng ngàn năm: "Ta sẽ tăng gia dòng dõi của Đa-vít và số các thầy tế lễ Lê-vi đầy tớ Ta đông đảo đến mức không ai đếm được, nhiều như sao trời, như cát biển." (Giê-rê-mi 33:22)
Ngày nay nhờ viễn vọng kính tối tân, các nhà bác học đã khám ra được 100 tỷ thiên hà (galaxies) mỗi thiên hà có cả 200 tỳ ngôi sao. Nhà thiên văn học nổi tiếng Carl Sagan (1934-1966) cho rằng: "Tổng số các vì sao trong vũ trụ nhiều hơn cát của tất cả các bãi biển của trái đất nầy."
(5) Con người thời xưa tưởng rằng các ngôi sao không xa quả địa cầu ta bao nhiêu, cho đến khi nhà thiên văn Bessel vào năm 1838 tính được khoảng cách của ngôi sao gần quả địa cầu nhất là 4x1013 (40,000 tỷ km). Giả như có một con đường từ quả đất nầy tới ngôi sao đó, nếu bạn lái xe với vận tốc 100 km/h thì phải mất 400 tỷ năm mới bạn tới được vì sao đó. Hàng mấy ngàn năm trước, Thánh Kinh ghi "Đức Chúa Trời vô cùng oai vệ, cao xa hơn các tầng trời, vời vợi hơn các vì sao!" (Gióp 22:12).
Thưa quý vị,
Đức Chúa Trời, dầu là Đấng quyền năng cao cả, đã tạo nên vũ trụ, mặt trời, mặt trăng và vô số các vì sao, nhưng Ngài lại đoái thương đến con người hèn hạ chúng ta, đang sống trong quả đất nhỏ bé do chính Ngài sáng tạo. Thi sĩ David trước sự cao cả uy nghi của Chúa đã dâng lên Ngài cả lòng biết ơn, kính sợ, qua lời cầu nguyện:
"Chúa Hằng Hữu ôi, Chúa Chí Nhân,
Uy Danh Chúa vang lừng khắp đất,
Vinh quang Ngài chiếu rạng trời cao.
Đến trẻ con miệng còn thơm sữa
Cũng tung hô ca ngợi Thánh Danh,
Khiến quân thù thẹn thùng câm nín.
Khi con ngước mắt nhìn trời xanh,
Thưởng ngoạn công trình Chúa sáng tạo
Tinh tú, mặt trời và mặt trăng
Loài người là gì, mà Chúa nhớ đến?
Con loài người là chi, mà Chúa thăm viếng nó?
Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút,
Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng.
Cho người cai quản toàn vũ trụ, khiến muôn loài đều phải phục tùng.
Tất cả gia súc và thú rừng, đến các loại chim trời, cá biển,
Và mọi sinh vật dưới đại dương.
Uy Danh Chúa đời đời bất biến
Chúa Hằng Hữu ôi, Chúa Chí Nhân,
Uy Danh Chúa vang lừng khắp đất." (Thi Thiên 8:1-9)
Trong lời cầu nguyện nầy, chúng ta thấy được ba chân lý quan trọng:
(1) Đức Chúa Trời sáng tạo muôn loài vạn vật. Trang đầu của Thánh Kinh có ký thuật lại rằng: "Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất." (Sáng Thế Ký 1:1) Nhà bác học, toán học Isaac Newton cũng là người có lòng tin Đức Chúa Trời, cố gắng thuyết phục người bạn về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời trong thời gian dài. Sau cùng ông làm mô hình hệ thống thái dương hệ, với mặt trời, mặt trăng, quả đất và các hành tinh vận chuyện thật nhịp nhàng sống động. Vài tuần sau đó, người bạn đến thăm trầm trồ khen mô hình đó. Isaac nói với bạn rằng mô hình tình cờ xuất hiện, tự nhiên mà có. Người bạn không tin, đến đây Isaac giải thích cho bạn, lúc bấy giờ bạn ông mới tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng Tạo Hóa.
(2) Đức Chúa Trời nuôi nấng, chăm sóc, bảo vệ chúng ta. Ngài phán cùng chúng ta rằng: "Ta đã gánh vác các ngươi từ lúc mới sanh, bồng ẵm các ngươi từ trong lòng mẹ. Cho đến chừng các ngươi già cả, đầu râu tóc bạc, ta cũng sẽ bồng ẵm các ngươi. Ta đã làm ra, thì sẽ còn gánh vác các ngươi nữa. Ta sẽ bồng ẵm và giải cứu các ngươi." (Ê-sai 46:3b-4)
(3) Chúa đã thăm viếng con người. Hai ngàn năm trước, Chúa đã giáng thế làm người, viếng thăm thế giới do chính Ngài sáng tạo, Ngài mang hình hài và thể xác của con người, đã chết thế tội cho con người, đến ngày thứ ba Chúa đã sống lại, về trời và hiện nay đang ngự ở ngai trời, quan tâm và đáp ứng từng nhu cầu của những ai biết ơn Ngài, tin rằng Đức Chúa Trời là chân thần duy nhất, tin Ngài là Đấng từ trời đến trần gian để giải cứu con người. Chúa Jesus phán: "Vì Đức Chúa Trời yêu thương nhân loại đến nỗi hy sinh Con Một của Ngài, để tất cả những người tin nhận Con Đức Chúa Trời đều không bị hư vong nhưng được sự sống vĩnh cửu. Đức Chúa Trời sai con Ngài xuống đời không phải để kết tội nhưng để cứu vớt loài người. Ai tin Con Đức Chúa Trời sẽ không bị kết tội, ai không tin đã bị kết tội rồi, vì không tin nhận Con Một của Đức Chúa Trời." (Giăng 3:16-18)
Chúa yêu quý vị, Chúa đã giáng trần vì quý vị, rất mong quý vị đến với Chúa Cứu Thế Jesus và mời Chúa ngự vào tâm hồn mình ngay giờ nầy. Kính chào quý vị và các bạn.
Mục Sư Tiến Sĩ Ngô Minh Quang