Ðám học trò ấy kết bạn với nhau thành một tổ học tập suốt thời kỳ Trung học từ khi họ thi đậu vào lớp Ðệ Thất trường công lập tại tỉnh lỵ. Sau 3 tháng nghỉ hè ở đồng quê, đến ngày tựu trường họ kéo nhau trở lại nhà trọ chuẩn bị cho niên học mới. Trên boóc-ba-ga xe đạp, chở đầy sách vở, gạo, mắm, rau quả dành cho 5 ngày nấu ăn tự túc trong tuần, họ vừa đi vừa chuyện trò cười vang trên con đường huyện lộ.
Rồi Tấn Toàn, trở thành mối tình đầu của cô bé Lam Lan. Và Lam Lan là hình bóng người con gái đầu tiên choán ngợp trái tim 16 của Toàn. Mối tình học trò thơ mộng nhưng cũng không kém phần nồng ấm.
Lam Lan giỏi môn văn còn Toàn trội hơn môn toán. Hai người dìu nhau học tập, cùng nhau xây đắp chung mộng ước sẽ trở thành nhà giáo. Cũng đã từng thề non hẹn biển quyết lòng kết tóc xe tơ. Hình ảnh một gia đình hạnh phúc đầy mật ngọt đã được vẽ lên trong trí tưởng của hai người.
Ðến mùa sim, những trái sim no tròn núc ních bắt đầu chín đen vỏ. Mùa trâm, đong đưa những chùm trái tím rịm trĩu cành. Họ là khách thường xuyên của hai mùa trái chín ấy. Miệng lưỡi người nào cũng tím ngắt như uống nhầm mực tím, nhìn nhau cười khúc kha khúc khích trên cành cây cao.
Gần hết năm Ðệ Nhị, bất thần mẹ Lam Lan bị bại liệt cả đôi chân buộc nàng phải bỏ học ở nhà lo cho đàn em và chăm sóc mẹ.
Lấy xong Tú tài Phần I, Toàn được cha mẹ cho vào Sài Gòn học tiếp.
Một năm sau, chàng nhận được thư Lam Lan báo tin cha nàng giữ lời hứa với người bạn nối khố ngày xưa gả nàng cho người con trai cả thuộc dòng họ nhà Tôn Thất. Một dòng họ lớn có thế lực thời bấy giờ ở dưới phố.
Mùa hè năm sau, Lam Lan gởi thư tha thiết gọi Toàn về quê trước khi nàng lên xe hoa. Dù cố tình xa lánh để nàng giữ tròn chữ hiếu, nhưng tâm tư Toàn lúc nào cũng vương vấn hình bóng Lan. Không thể chối từ lời khẩn thiết của người yêu mong được gặp mặt chàng lần cuối cùng, Toàn quyết định về quê thăm sau khi thi xong mảnh bằng Tú Tài 2.
Lam Lan hẹn Toàn đến khu rừng Trâm mà họ đã từng vui chơi trong mấy mùa hè trước. Một thời gian dài xa cách, nay gặp lại như cơn lũ mưa nguồn đầu tiên ào ạt đổ vào lòng suối cạn suốt mùa khô hạn. Họ ôm chầm lấy nhau và cơn mưa nước mắt tuôn trào. Lệ trùng phùng lẫn lệ chia ly ướt đẫm khuôn mặt u buồn của Lan. Họ dìu nhau ngồi trên tảng đá bàn, nơi mà hai người đã từng ước thệ.
Nước mắt đầm đìa, Lan ngả đầu trên vai Toàn nhắc lại những kỷ niệm, những ước vọng của hai người đã từng gắn bó.
Chợt, Lam Lan choàng tay ôm cổ Toàn thì thầm :
– Yêu em đi. Không còn mấy ngày nữa, xác thân nầy sẽ thuộc về người khác. Chúng mình sẽ vĩnh viễn mất nhau. Ngày xưa ta có ước nguyện thành vợ chồng. Em muốn dành cái ngàn vàng của đời người con gái cho riêng anh, vĩnh viễn thuộc về anh.
Toàn ôm chặt Lan vào lòng như để cho hai thân thể hòa chung làm một, cho tình yêu chan hòa vào máu thịt của nhau. Rồi hai người gắn chặt môi hôn. Nụ hôn dài nồng nàn, quên cả đất trời. Bất ngờ, Lan cởi nút áo nhìn Toàn bằng ánh mắt van nài, thúc hối... Chàng vội giữ tay nàng lại:
– Cảm ơn em. Anh yêu em, yêu vô cùng tận vì thế anh cần phải bảo vệ hạnh phúc cho em. Hạnh phúc của em chính là hạnh phúc của anh. Ta thật sự mất nhau trong đời sống vợ chồng, nhưng trái tim ta luôn đầy ắp hình ảnh của nhau. Anh mang niềm hãnh diện vì đã có một người yêu sẵn sàng chịu khổ lụy vì mình.
Lam Lan bật khóc. Gục đầu vào ngực Toàn.
Ánh nắng chiều đã tắt trong khu rừng trâm từ lâu mà đôi tình nhân vẫn còn ôm nhau tưởng chừng hóa đá. Khi loài sóc ăn đêm gọi nhau trên vòm cây cao họ mới chịu rời khỏi khu rừng.
Bóng tối phủ trùm. Ánh Sao Hôm le lói trên bầu trời cao. Vài ba ánh sáng đom đóm lẻ loi lập lòe bay lướt trên cánh đồng lúa đang thì con gái. Vừng trăng vượt lên khỏi rừng bạch đàn soi đường cho hai người đi bên nhau mà con tim cảm nhận được nỗi cô đơn của những ngày chia ly sắp tới.
Còn đúng 1 tuần nữa là đến ngày cưới. Toàn gặp Lan lần cuối cùng trước khi trở lại Sài gòn. Nàng khóc trên vai Toàn, những giọt nước mắt thấm qua làn áo mỏng chảy dài trên lồng ngực chàng như những giọt cường toan làm tan loãng cả ý chí và sức lực của một chàng trai.
Vùi mặt vào tóc nàng, Toàn giấu đi những giọt lệ yếu đuối. Chàng bùi ngùi từ biệt bằng nụ hôn trên tóc nàng, mái tóc mới gội còn nồng hương bồ kết. Ðó là mùi hương cuối cùng của mối tình đầu mà Toàn mang theo suốt quãng đời xa xứ.
o O o
Rồi thời gian trôi đi cùng với dòng sông quê nhà mang theo bao mùa nước lũ. Ðể quên đi hình bóng người yêu, Toàn vùi đầu vào sách vở, hết giờ ở giảng đường lại vào thư viện. Tối về lẻ loi trên căn gác lửng với ánh điện vàng hiu hắt.
Bỗng một hôm, Toàn nhận được bức thư của Lam Lan. Thư viết:
“Anh yêu,
Bốn năm rồi bặt tin anh, nhưng hình ảnh của anh mãi còn ấp ủ trong trái tim em. Anh có biết em đau khổ đến chừng nào trong cuộc đời làm vợ một người mà mình không yêu. Từ ngày đứa con đầu lòng ra đời là chồng em đổi tính không thể nào hiểu được. Mỗi lần ông ấy nhìn mặt con gái là nổi cơn bức xúc. Ông ấy nghi ngờ con bé không mang dòng máu của họ Tôn Thất bởi nó giống anh như hai giọt nước. Cũng chiếc mũi dọc dừa, hai mắt tròn xoe. Em đã giải thích nhiều lần rằng, cái trinh tiết của em đã dành cho chồng trong đêm Tân hôn. Ðiều đó đủ giải oan cho em nhưng ông ấy vẫn không hề thay đổi thái độ. Vừa rồi, trong cơn say rượu, ông ấy giận dữ nói như tát nước vào mặt em:
– Bé Ngọc đâu phải con của tôi, cô hãy nhìn kỹ nó đi, có phải là khuôn mặt của thằng người yêu cũ của cô không? Ôi, tôi chỉ là loài chim cà cưỡng nuôi tu hú! Tôi thù nó. Tôi hận nó, thằng nhãi ranh đểu cáng.
Ông ấy nói xong bỏ mặc mẹ con em suốt mấy ngày không về. Em vô cùng khổ sở.
Vài ngày sau em bồng con bỏ nhà ra đi. Hiện giờ em đang ở với cô Út ở thị xã Pleiku đã 2 tuần lễ rồi. Nhận được thư nầy anh nhớ thư hồi âm cho em. Nếu có thể được, anh lên đây cho em gặp mặt một lần để an ủi phần nào nỗi buồn tủi của em.
Anh Toàn ơi, em sẽ không trở lại với ông ấy nữa đâu. Cuộc sống vợ chồng mà cứ nghi ngờ, giằng xé nhau mãi, có ngày em phải liều mình, bỏ lại con côi.
Con em đã thức dậy rồi. Thôi nhé, tạm biệt anh.
Lam Lan.”
Dự tính thi xong sẽ lên Pleiku thăm nàng, nên Toàn không viết thư hồi âm. Mãi đến 1 tháng sau chàng mới đón xe lên “Phố Núi”. Ðến nơi, được bà cô ruột của Lam Lan cho hay chồng nàng đã tìm đến xin lỗi vợ và đón mẹ con nàng về lại quê nhà.
Vừa tốt nghiệp đại học, Toàn trình diện nhập ngũ theo lệnh tổng động viên của Bộ Tổng Tham Mưu. Với thời giờ luyện tập quân sự khắc khổ theo khẩu hiệu: “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, thời gian miệt mài những bài học lý thuyết trên giảng đường, trên bãi tập mà hình ảnh của Lam Lan vẫn không xóa mờ được trong tâm trí của chàng.
Rồi chiến trường bùng lên dữ dội sau ngày có lệnh triệt thoái Bộ tư lệnh quân đoàn II. Lực lượng miền Bắc ồ ạt tràn qua sông Thạch Hản khi tỉnh Quảng Trị bỏ ngỏ. Như những con cờ domino nối tiếp nhau ngã đổ. Khởi đi từ Tây nguyên lần lượt đến vùng I, vùng II, vùng IV chiến thuật rồi cả miền Nam. Những ngày cuối cùng, Toàn kẹt lại tại thành phố Sài Gòn.
o O o
Một đoàn xe Mô-lô-tô-va bít bùng chạy thẳng vào trại tù cải tạo An Ðiềm. Ðây là số tù nhân thuộc các trại tập trung do quân đội quản lý chuyển giao cho lưc lượng công an chuyên trách quản lý tù.
Người bạn tù cũ nằm bên Toàn bị chuyển sang đội khác, giờ được thay vào người mới đến. Ðó là một người đàn ông ốm yếu, xanh xao, có đôi mắt lộ tròng. Nhìn mái tóc màu muối tiêu, hai má hóp sâu, người ta phỏng đoán tuổi ông đã trên 60.
Khi cán bộ chỉ định chỗ nằm là ông ta vứt lên sạp chiếc chiếu đã nhàu nát và chiếc ba lô cáu bẩn. Trông thấy Toàn, ông già đứng sững nhìn một hồi lâu, rồi âm thầm leo lên sạp chẳng một lời chào hỏi lịch sự. Một thái độ bất cần. Ông không giống như những bạn tù kia là tạo thiện cảm với người xung quanh.
Dựa lưng vào vách, hơi thở khò khè, ông già há miệng cố hít lấy hơi cho cái phổi bị bệnh suyễn đang lên cơn. Ðôi tròng mắt của ông lộ ra trông kỳ dị và thảm não vô cùng. Toàn vội lấy bình đông nước nóng rót cho ông một ly. Lão chụp ly nước uống ừng ực như khách lạc đường trên sa mạc thiếu nước lâu ngày. Nhờ nước ấm, cơn suyễn hạ bớt. Thay vì cảm ơn, ông nhìn Toàn với ánh mắt đầy ngờ vực.
Ðêm đầu tiên nằm bên ông, Toàn như bị tra tấn. Trong cái cuống phổi của người bệnh suyễn kinh niên tưởng chừng như có gắn nhiều lưỡi gà. Hơi thở ra của ông như gió trời thổi qua khe núi rít lên từng hồi. Khi ông trở mình theo thế nằm khác thì tiếng kêu trong cổ đổi giọng rè rè như tiếng sáo sũng nước. Toàn nghe ông lão thở mà ngực chàng cũng thấy ngột ngạt, tưng tức như thiếu hơi nên cả đêm không hề chợp mắt.
Sáng ngày, đến giờ đi lao động, ông già cáo bệnh xin nghỉ nhà. Cán bộ quản giáo đội nhìn ông một hồi lâu, hỏi:
– Anh tên gì?
– Thiên.
– Bị bệnh gì?
– Suyễn.
Ông lão trả lời trong hơi thở khò khè.
Cán bộ lắc đầu:
– Suyễn, chẳng phải bệnh nhiễm trùng không có tiêu chuẩn được nghỉ nhà. Bệnh suyễn sẽ có công việc dành cho bệnh suyễn.
Khuôn mặt ông già đanh lại. Chẳng cần thêm một tiếng năn nỉ, ông bước theo bạn tù đang trên đường ra cổng.
Ðến địa điểm lao động, ông Thiên ngồi ỳ một chỗ để thở. Quản giáo ra lệnh:
– Anh kia, đứng dậy đi làm ngay.
Ông già tỉnh bơ, ngồi như phỗng.
Quản giáo đến khỏ cây gậy vào ống chân khẳng khiu chỉ còn da bọc xương của lão, quát to:
– Anh ù lì đấy hả, chống đối phải không? Tôi ra lệnh anh đứng lên đi làm.
Ông già trợn mắt, lớn tiếng:
– Ban Giám Thị trại cũ cho tôi được miễn lao động, ở đây ông có buộc tôi làm, tôi cũng không làm nổi. Bệnh của tôi thà chết còn hơn sống, ông cứ cho tôi viên đạn vào đầu để giải thoát, tôi cảm ơn ông!
Cán bộ quản giáo giận lắm nhưng chẳng làm gì được với kẻ mong muốn cái chết, đành ra lệnh cho vệ binh áp giải ông về trại. Những ngày sau đó ông Thiên trở thành “quản gia” của đội 3 phụ trách dọn vệ sinh trong phòng.
Hành động khí khái đầy can đảm đã khiến cho Toàn mến phục ông già. Bạn tù thi nhau chỉ cho ông các loại thuốc nam để trị bệnh suyễn.
Mỗi lần đào đất đắp đập, Toàn cố tìm loại ổ bọ hung nằm sâu trong lòng đất đem về nướng đỏ, sắc nước cho ông già uống. Gặp con tắc kè là bằng mọi cách Toàn bắt cho kỳ được đem về đốt cháy ra than, nghiền thành bột để dành cho ông xử dụng. Cứ như thế ngày này qua ngày nọ, tháng này qua tháng khác, Toàn hy vọng chữa lành bệnh suyễn cho ông bạn “già gân”.
Môt hôm, cơn suyễn của ông già bất chợt nổi lên trầm trọng. Rất may, trúng vào chiều Chủ nhật, cả trại đều nghỉ lao động. Toàn vội vã chạy xuống nhà bếp nấu một gô nước sôi, xin bạn tù vài giọt dầu khuynh diệp nhỏ vào gô rồi bắt ông già nằm sấp chúc đầu xuống xông hơi. Hơi nước nóng có mùi dầu khuynh diệp ngấm vào phổi làm cho cuống phổi bớt sưng. Ðờm lỏng tuôn ra khiến cho cơn suyễn giảm nhẹ dần. Khi lấy lại được hơi thở bình thường, ông già Thiên hỏi:
– Này Toàn, máu của cậu thuộc nhóm nào, A,B, hay O?
Toàn vừa đậy nắp gô nước đã nguội, vừa đùa cợt:
– Chẳng lẽ bố muốn đổi máu suyễn lấy máu sốt rét kinh niên này sao?
Ông già không nói gì chỉ ậm ừ.
Ðờm trong phổi chảy đầy cả mảnh giấy xi-măng. Cẩn thận lắm mới giữ đờm không vung vãi ra sàn nhà khi Toàn mang bỏ vào cầu tiêu.
Khuôn mặt của lão Thiên giờ trông tươi tắn hẳn ra và ánh mắt có thần sắc trở lại. Ông ta nở nụ cười với Toàn. Ðây là nụ cười cởi mở nhất của lão lần đầu tiên dành cho hắn. Ðã hơn 1 năm trời, dù được sự giúp đỡ hết mình của Toàn, nhưng người ta nhận thấy trong ánh mắt ông Thiên nhìn Toàn vẫn không có chút gì thiện cảm.
Một buổi tối, khi hai người đang nằm dỗ giấc ngủ, bỗng ông già khe khẽ hỏi:
– Toàn à, tôi hỏi thật cậu nhé, phải trả lời nghiêm chỉnh đấy. Cậu có thuộc nhóm máu O không?
– Hôm nay bố trở lại đề tài đổi máu nữa à? Máu O là nhóm máu bác ái đấy. Tôi thuộc nhóm máu B, ích kỷ lắm, chỉ nhận chứ đếch cho ai được.
Toàn trả lời rồi quay lưng về phía ông để dỗ giấc ngủ.
– Thế à!
Lão kêu lên, rồi thầm thì lảm nhảm điều gì đó mà Toàn không để ý.
Sau trận cấp cứu, lão Thiên thường tỏ ra niềm nở hơn đối với Toàn.
Một hôm, lão đang vá cái áo rách vai, đột ngột hỏi:
– Nầy Toàn, cậu có vợ con gì chưa?
– Hành quân suốt 30 ngày mỗi tháng, còn thời gian đâu mà cưới vợ hở bố?
Toàn vừa vấn điếu thuốc rê vừa nhìn lão Thiên trả lời.
Với nụ cười móm mém để lộ 4 chiếc răng cửa xiêu vẹo, ông già Thiên tằng hắng bảo:
– Tôi biết chắc cậu không nhỏ tuổi hơn vợ tôi đâu, sao cứ gọi tôi là bố.
– Thế cụ bà ở nhà được mấy mươi niên kỷ?
– Bằng tuổi cậu đấy, 33.
– Bố tài thật, đoán tuổi như thần. Thế bố hơn bà nhà mấy chục tuổi?
– Một chục 12.
Toàn giật mình, vứt tàn thuốc xuống nền nhà, nhìn ông Thiên, ngạc nhiên hỏi:
– Tuổi của ông mới 45 sao? Thế mà anh em tưởng ông trên 6 bó.
Ông Thiên tâm sự:
– Căn bệnh suyễn kinh niên, cộng 4 năm trong tù đói khát với 14 năm lập gia đình, cái tâm mình không ổn khiến cho người mau già lắm bạn ơi.
– Bác có mấy người con?
– Bà xã sinh đứa con gái đầu lòng rồi nghỉ dài hạn, nay con bé đã 12 tuổi rồi.
Nói đến đây, chợt ông Thiên hạ thấp giọng như nói với chính mình: “Nếu gặp nhau sớm hơn, biết đâu gia đình mình đã lấy lại hạnh phúc.”
Toàn không hiểu câu nói đó có ý gì, nhưng chàng đoán lờ mờ là vợ chồng ông Thiên có vấn đề gì trục trặc.
Buổi sáng đầu mùa Ðông, sương mù dày đặc. Khí lạnh bỗng chốc đổ về như cắt vào da thịt, làm tê cóng cả chân tay. Tù xuất trại đi lao động co ro trong tấm vải nhựa đi mưa thay áo lạnh. Những cơn gió lộng, gió xoáy thổi từng hồi như muốn cuốn hút đám tù rách rưới cùng với đám lá khô ven đường. Người tù với áo quần bằng vải phin mặc phong phanh suốt bốn mùa. Phương cách chống rét duy nhất của tù là làm việc cật lực cho nhiệt lượng trong người bốc hơi để sưởi ấm lấy cơ thể mình.
Suốt một ngày phơi mình dưới bầu trời âm u, rét mướt còn phải làm việc gắng sức, người nào cũng bơ phờ mệt lử, lê từng bước chân với cơn đói rã rời về trại.
Tù nhập trại, tiếng ồn ào như vỡ chợ mà ông Thiên vẫn còn nằm co quắp trong chiếc mền rách. Sợ động mạnh làm ông già thức giấc nên Toàn đặt nhẹ cái túi xách may bằng bao cát lên sạp rồi chồm lấy lon gô của ông già đi lấy nước luôn thể.
Ðến lúc lãnh phần cơm tối, Toàn khẽ nắm chân ông Thiên lay gọi. Cái chân lạnh như nước đá khiến Toàn giật mình, vội kéo cái mền ra. Thân thể ông cứng đờ. Toàn tri hô lên, mọi người xúm quanh. Kẻ cạy miệng đổ dầu, người xoa bóp chà xát trên ngực và toàn thân ông. Cán bộ y sĩ trại đến khám nghiệm và quả quyết ông Thiên chết đã mấy tiếng đồng hồ rồi.
Cán bộ ra lệnh khiêng xác xuống trạm xá. Riêng tư trang của ông Thiên thì giao cho ban giám đốc.
Sau buổi cơm chiều, Toàn nhận lệnh trình diện ban trực trại. Ông phó giám thị chìa một phong thư đã kiểm duyệt bảo vớiToàn:
– Ðây là lá thư của anh Thiên gởi cho anh. Còn bức thứ hai, chúng tôi chịu trách nhiệm chuyển cho gia đình anh ấy với toàn bộ tư trang của người chết.
Về đến phòng, Toàn mở thư đọc :
“Bạn Toàn thân mến,
Qua lần cơn suyễn hành hạ “thập tử nhất sanh” được Toàn cấp cứu, tôi biết bệnh suyễn trong hoàn cảnh tù đày này sẽ giết tôi bất cứ lúc nào. Vì vậy, tôi phải viết trước thư nầy cho bạn để phòng hờ cái chết vì nghẹt thở xảy ra cho tôi. Kèm theo là bức thư thứ hai nhờ bạn chuyển cho vợ tôi.
Sống gần bạn đúng 1 năm 4 tháng, tôi mới thấy được tính vô tư và lòng nhân hậu của bạn. Một người đàn ông lý tưởng, xứng đáng để người đàn bà tôn thờ. Bạn không biết tôi, nhưng tôi biết bạn đã mười mấy năm về trước thuở bạn còn là... người tình đầu của vợ tôi. Tôi mang uẩn khúc trong lòng đã mười mấy năm qua, giờ đây vỡ lẽ tôi mới nhận chân được sự sai lầm lớn lao của mình và hổ thẹn với lòng vì tính ghen tuông, cố chấp.
Tại sao tôi không dám tâm sự với bạn trong những ngày còn sống? Có lẽ do tính tự ái và nhút nhát của mình. Tôi rất yêu thương vợ nhưng lại ghen tức với mối tình đầu của cô ta. Mối tình đã chiếm trọn con tim và trở thành thần tượng của nàng.
Người con gái đầu lòng của chúng tôi là nguyên ủy của mối hận tình. Nó trở thành nỗi thống khổ đã đày đọa tôi suốt mười mấy năm trời chỉ vì nó giống bạn như khuôn đúc. Lúc còn bé, tôi lén bồng nó đến bệnh viện thử máu. Dù cùng loại máu O với tôi nhưng tôi vẫn không tin là con ruột của mình. Từ ngày bạn cho biết bạn thuộc nhóm máu B thì tôi mới hiểu ra mình nghi oan cho vợ và cảm thấy có tội với đứa con gái thơ dại vì tính đa nghi, hồ đồ của người cha.
Tôi không còn mong đợi ngày đoàn tụ với gia đình nữa đâu. Linh cảm cho thấy tử thần đang kề cận bên tôi, chực chờ cơn nghẹt thở của bệnh suyễn nổi lên bất ngờ sẽ mang tôi qua thế giới bên kia. Thiên đường hay địa ngục chẳng cần thiết nữa. Qua thư nầy, hy vọng bạn chấp nhận lời xin lỗi của tôi. Ðược vậy, linh hồn tôi sẽ thanh thản ra đi bạn ạ.
Toàn ơi, bạn thật sự xứng đáng là một người bạn tốt, một người tình cao thượng và một người chồng lý tưởng. Vì thế tôi khẩn cầu bạn hãy vì Tôn Thất Thiên này, vì mối tình đầu sâu đậm ngày xưa của hai người, xin bạn hãy bảo bọc vợ tôi là bà Tô Lam Lan và con gái tôi Tôn Nữ Lam Ngọc để bù đắp lại một thời khổ lụy mà mẹ con nàng đã chịu đựng…”
Ðọc đến đây, dù bức thư chưa chấm dứt nhưng Toàn thấy ngỡ ngàng và xót xa quá, nên vội gấp bức thư bỏ vào túi. Chàng thẫn thờ ra ngoài sân nhìn lên bậc cấp hội trường, nơi ông Thiên thường xuyên ngồi hong nắng. Chàng không ngờ Tôn Thất Thiên là chồng của Lam Lan. Lần từ biệt cuối cùng, Toàn chẳng còn tâm trí để hỏi thăm tên họ người chồng tương lai của nàng, chỉ biết rằng anh ta là một sĩ quan cảnh sát. Ngày gặp Thiên trong tù, chàng cũng rất vô tư trước ánh mắt lầm lì, xoi mói của ông. Ngay cả việc ông hỏi chàng thuộc loại máu nào, ý nghĩ đơn thuần của chàng cho là tính tò mò của ông ấy mà thôi.
Những năm tháng trong tù, bao nỗi đắng cay, khổ nhục đã làm cho trái tim chàng khô héo. Có nhiều đêm nằm thao thức, Toàn cố gợi nhớ lại kỷ niệm mối tình ngày xưa, nhưng luôn bị cơn đói dày vò nên đành bất lực. Giờ đọc bức thư của Thiên, hình ảnh Lam Lan vụt hiện ra khiến cho lòng Toàn ngậm ngùi.
14 năm nhẫn nhục, ép mình theo “khuôn vàng thước ngọc”của các cụ ngày xưa, Lam Lan như tự hủy hoại một thời xuân sắc của mình. Niềm xót thương người yêu chợt bùng lên như sóng vỗ trong lòng Toàn. Dòng nước mắt âm thầm thấm mặn môi, khiến Toàn nhớ lại buổi chia tay cuối cùng, Lam Lan đã ôm hôn chàng để lệ nhòa trên hai khuôn mặt và ướt mặn môi chàng…
o O o
Vào đầu mùa Đông năm 1991, tại cổng ra của hành khách phi trường Quốc tế San Francisco, thuộc Tiểu bang California Hoa Kỳ, một người Mỹ cầm tấm bảng bằng các-tông có ghi hàng chữ: “Chào Mừng Gia Đình Ông TOAN TRAN, HO.9”.
Ông này có nhiệm vụ tiếp đón một gia đình Việt Nam đến Hoa kỳ tỵ nạn theo diện Cựu Tù Nhân Chính Trị tái định cư.
Chiếc Boeing chở khách đã hạ cánh xuống phi đạo từ lâu, đến giờ này hành khách mới lần lượt đi ra cổng.
Một người đàn ông trạc tuổi trung niên tay xách túi nylon đựng hồ sơ tỵ nạn có in chữ IOM tiến đến trước mặt người cầm bảng:
- Tôi là Trần Tấn Toàn, chủ gia đình HO.9, kính chào ông.
Người nhân viên cầm tấm bảng vồn vã bắt tay Toàn và tự giới thiệu bằng tiếng Việt rất trôi chảy:
– Tôi tên là David Johnson thay mặt Hội Thiện Nguyện USCC chúc mừng ông và gia đình đã đến được đất nướcTự do.
Tiếp theo, Toàn lần lượt giới thiệu từng người trong gia đình: Trước tiên, anh đặt tay trên vai người phụ nữ có khuôn mặt phúc hậu đang đứng khép nép một bên:
– Ðây là vợ tôi, bà Tô Lam Lan 45 tuổi. Kia là cô con gái lớn Tôn Nữ Lam Ngọc 24 tuổi.
Toàn vò đầu cô bé đang ôm chân cha, giương đôi mắt tròn xoe nhìn ông David có mái tóc vàng mắt xanh mà lại nói được tiếng Việt, tiếp:
– Và đây là đứa con gái thứ nhì của chúng tôi Trần Thị Lam Loan, 4 tuổi.
Nhìn hai khuôn mặt rạng rỡ của hai người con đều giống bố như khuôn đúc khiến ông David hỏi nhỏ Toàn:
– Thưa ông Trần Tấn Toàn, cô Tôn Nữ Lam Ngọc là con gái đầu của ông mà sao khác họ?
Toàn trả lời ông David với âm giọng vừa đủ nghe:
– Ngọc là người chị cùng mẹ khác cha với em gái nó. Cháu Ngọc giống tôi có lẽ đây là sự sắp đặt của Thượng đế. Một sự thật không lý giải được, chỉ có đấng toàn năng mới trả lời được điều này.
Ông David chẳng hiểu gì về lời giải thích dài dòng của Toàn. Ông chỉ ậm ừ qua loa rồi mời mọi người lên xe rời khỏi phi trường.
Ngồi trên băng ghế sau cùng, Toàn nắm tay vợ âu yếm:
– Biết đến bao giờ mình trở lại rừng Trâm ở quê nhà để thăm hòn đá Bàn cờ, nơi đã chứng kiến lời ước thệ của chúng ta trong buổi đầu yêu nhau. Anh nghĩ khí thiêng nơi ấy đã tích tụ hình bóng của anh và em quyện với lời nguyền ước năm xưa kết thành chứng quả cho ngày hôm nay. Những tưởng mất nhau vĩnh viễn nào ngờ lại đoàn viên!
Lam Lan ngước nhìn chồng với ánh mắt đầy xúc động, rồi ngả đầu trên vai Toàn để dòng nước mắt hạnh phúc tràn ra trên vai áo chàng. Nắm bàn tay chồng, Lam Lan áp vào ngực mình thầm cảm ơn Toàn đã thật sự mang đến cho nàng mùa Xuân ấm áp sau bao năm sống hiu quạnh qua 14 mùa Ðông lạnh giá của cuộc đời./.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích