Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Wednesday, September 21, 2011

Người Xây Dựng Hôn Nhân (3)



Người Xây Dựng Hôn Nhân (3)

Tại một Hội thánh kia, các trưởng lão đến gặp Ông bà Mục sư có việc quan trọng. Gần một năm rồi, hội chúng ngấm ngầm bất mãn vì sự kém hiệu quả của ông chủ tọa. Rõ ràng có điều gì đó không ổn, nhưng không ai có thể xác định được khó khăn ấy là gì.

Chương 3: SỰ HIỆP NHẤT TRONG TÂM HỒN
1. Vận Dụng Hay Giúp Đỡ.
Tại một Hội thánh kia, các trưởng lão đến gặp Ông bà Mục sư có việc quan trọng. Gần một năm rồi, hội chúng ngấm ngầm bất mãn vì sự kém hiệu quả của ông chủ tọa. Rõ ràng có điều gì đó không ổn, nhưng không ai có thể xác định được khó khăn ấy là gì. Tuy nhiên, những tháng gần đây các nhân vật lãnh đạo trong Hội thánh đều nhất trí với nhau rằng, nan đề dù ít hay nhiều đều có liên hệ đến cuộc hôn nhân của ông Mục sư.
 Khi các trưởng lão họp đánh giá tình hình, họ đều đồng ý rằng bà chủ toạ càng lúc càng bị cuốn hút vào công việc tư vấn cho các thiếu niên có vấn đề. Họ thắc mắc không biết có phải vì công việc ấy đã vắt kiệt sức lực của bà chủ toạ đến độ bà không còn đủ sức để làm vợ nữa. Điều hiển nhiên là công việc tư vấn của bà càng tăng thì chồng bà càng bị ngập trong lịch sinh hoạt gồm hội họp, những trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hằng ngày. Dường như ông mất đi sự tiếp xúc cần thiết với con người để phục vụ Hội thánh hữu hiệu hơn.
Mặc dù không ai hiểu cách chính xác làm thế nào ông mục sư rút bớt vai trò chăn bầy vì bà mục sư quá bận trong công tác tư vấn, nhưng các trưởng lão đều thống nhất rằng có điều gì đó đáng chú ý trong cuộc hôn nhân này. Khi họ bày tỏ mối quan ngại với ông bà trong một cuộc họp thì cả hai đều phản ứng gay gắt và buồn nản. Có những giây phút căn thẳng, và sau lời khuyến cáo kiên quyết ông bà mới đồng ý đi tìm chuyên gia.
Vài tuần sau đó họ đến văn phòng của tôi, họ tỏ ra nhiệt tình để che giấu hồi hộp: tôi khởi đầu cho họ biết ban trưởng lão đã viết cho tôi một thư đề cập đến nhận xét và mối quan tâm của họ. Ông mục sư kịch liệt phản đối những phỏng đoán của các trưởng lão và bảo đảm với tôi rằng cuộc hôn nhân của ông vẫn vững vàng như hồi nào đến giờ và rằng họ rất tôn trọng sự chủ trì của Chúa. Bà vợ đoan chắc rằng bà yêu chồng tha thiết và luôn luôn đặt gia đình lên trên mọi nhiệm vụ khác.
Cuộc nói chuyện của chúng tôi cho thấy cặp vợ chồng này chân thành cảm biết họ yêu Chúa. Cả hai đều chứng tỏ mình biết cách vững vàng về tình yêu vô điều kiện của Chúa Jêsus Christ như là nền tảng của sự an toàn và mục tiêu đời đời của Đấng Christ là cái khung để chúng ta tìm được ý nghĩa. Tuy nhiên dù việc họ nắm chắc chân lý đạt vượt mức yêu cầu, tôi vẫn cảm thấy thiếu một điều gì đó. Không hề có một chút thân mật nào giữa hai người, không có tự nhiên, không có ấm cúng được chia sẻ, chỉ có tình bạn bền chặt và khéo gìn giữ.
Trong khi tư vấn, tôi thường khuyến khích cả vợ lẫn chồng thảo luận về những sự kiện đặc biệt gần đây trong cuộc sống họ để tôi có thể quan sát sự phối hợp của họ. Ông mục sư mô tả một dịp mới đây hai vợ chồng cùng đi ăn nhà hàng, một dịp rất hiếm hoi. Trong khi họ đang ăn, thì người vợ nhận được cuộc gọi đi tư vấn cho một em gái bỏ nhà đi vừa bị cảnh sát bắt. Tôi hỏi ông mục sư cảm thấy thế nào khi vợ ông phải bỏ dở bữa ăn để đi khẩn cấp như thế.
 Ông cười trả lời: “Nhà tôi thương tụi nhỏ lắm. Chúa cho bà ấy một chức vụ thật đặc biệt và quan trọng”.
Tôi hỏi tiếp: “Tôi không biết ông có khi nào ao ước bà nhà dành riêng một buổi tối cho ông mà không làm gì liên hệ đến chức vụ của bà, để có thể toàn tâm toàn ý lo cho ông không?”
 Ông ta đáp: “Ồ có chứ, nhưng tôi tin rằng điều nhà tôi làm thật rất quan trọng. Và cả hai chúng tôi đều tận hiến cuộc đời mình để phục vụ theo ý Chúa.
 Lúc này bà vợ bực tức: “Tôi không đồng ý với cách ông đặt vấn đề. Nhà tôi rất quan trọng đối với tôi hơn bất cứ cái gì hoặc bất cứ ai trừ Chúa và công việc Chúa. Tôi tin rằng Chúa dùng chúng tôi như một tổ để phục vụ tha nhân - Nhà tôi chủ toạ Hội thánh, còn tôi góp sức giúp những đứa trẻ Chúa đưa đến cho tôi. Xét trong cuộc sống tôi, tôi chẳng thấy có gì sai trật cả.” Đôi vợ chồng này có vấn đề hay không? Cuộc hôn nhân này có thích hợp với hoạch định của Đức Chúa Trời về sự hiệp nhất không? Rõ ràng họ hiểu rằng nhu cầu của họ được Chúa đáp ứng và họ tận tụy phục vụ Ngài. Tuy nhiên mối quan hệ giữa hai người dường như mờ nhạt. Có gì bất ổn chăng?
I/ KHÁI NIỆM VỀ SỰ HIỆP NHẤT TRONG TÂM HỒN.
Nhiều cặp vợ chồng tín hữu hầu như có thể nói cách lưu loát ý tưởng mình về sự Hiệp nhất trong Tinh thần: Đấng Christ là tất cả nhu cầu của tôi về an toàn và ý nghĩa; do đó tôi không cần mong đợi người bạn đời đáp ứng nhu cầu của tôi - Tôi có thể hi sinh tận hiến đời mình để ban phát, tin rằng Chúa sẽ lại làm đầy nguồn sinh lực nếu nó có bị khô cạn. Nhiều cặp hiểu rằng vì cớ lời hứa của Chúa nên họ có thể nhảy từ Vách An toàn xuống Vực Hắt hủi, chỉ còn có sợi dây Yêu thương của Đấng Christ để trông cậy trong khi người khác đã bỏ rơi họ.
 Nhưng đối với đại đa số tín hữu, những điều này có vẻ lý thuyết. Thông thường các cặp vợ chồng không hề nghĩ rằng những điều ám chỉ trong những khái niệm này là dành cho mối quan hệ hôn nhân. Và vì cớ họ không biến nó từ lý thuyết sang kinh nghiệm nên những lẽ thật này không bao giờ được xem là quan trọng. Chỉ những lẽ thật nào cuối cùng nắm được cốt lõi của bản thân con người Cơ Đốc mới là những lẽ thật mà người ấy căn cứ vào đó để sống.
Những khái niệm đằng sau sự Hiệp nhất trong Tinh thần thường và cần dẫn đến một kiểu mẫu quan hệ vợ chồng mà tôi gọi là:” Hiệp Nhất Tâm Hồn”.
Khi Kinh thánh nói đến việc con người sử dụng khả năng của mình để liên hệ với Đức Chúa Trời, Kinh thánh thường nhắc đến họ như tâm linh hoặc bản chất tâm linh của con người (xin xem Giăng 4: 24). Nhưng “Khi chữ linh hồn được dùng để nói đến phần phi vật chất của con người, nó mô tả con người trong mối quan hệ nào đó trong những hoàn cảnh ở trần thế này”. ( J.Oliver Buswell, A Systematic Theology of the Christian Religion, Grand Rapids: Zondervan, 1972, part II, pp.239-40)
 Trong phần giải thích về sự Hiệp nhất Tinh thần, tôi chủ yếu nhắm vào mối tương giao của mỗi người với Chúa và cách thức mối tương giao này vươn đến nhu cầu an toàn và ý nghĩa của một người. Nhưng khi chúng ta chuyển sang mối quan hệ giữa vợ chồng với nhau thì thuật ngữ” Hiệp Nhất Tâm Hồn” dường như thích hợp hơn và dễ chấp nhận hơn. Theo tôi hiểu hoạch định của Đức Chúa Trời thì Hiệp nhất Tinh thần mà các đôi vợ chồng được hưởng là nhằm đưa đến một sự hiệp nhất giữa hai người (hoặc linh hồn) sâu xa hơn.
Sự hiệp nhất này tăng trưởng từ một sự phó thác thông minh, có tính cách hỗ tương và không hạn chế để trở thành một công cụ của Đức Chúa Trời nhằm đáp ứng cách sâu sắc nhu cầu cá nhân của người phối ngẫu bằng một phương cách độc đáo có ý nghĩa và rất mạnh mẽ. Hay, đơn giản hơn, nếu Hiệp nhất Tinh thần là sự phục vụ hổ tương vào Đức Chúa Trời để được đáp ứng nhu cầu cá nhân, thì nền tảng của Hiệp nhất Tâm hồn là một sự tận hiến hổ tương để chăm sóc cho nhu cầu cá nhân của nhau.
Cũng giống như nhiều cặp vợ chồng Cơ đốc khác, ông bà mục sư không hiểu rõ mối quan hệ có tính cách hổ tương trong chức vụ. Thật ra khi phân tích kỹ sẽ thấy cuộc hôn nhân của họ được xây dựng chủ yếu trên sự tận hiến, không phải để chăm sóc cho nhau, nhưng để rèn luyện chính mình trong mối quan hệ mà sự đau đớn tình cảm được giữ ở mức tối thiểu. Không bên nào có ý thức đáng kể về:
1) Những nhu cầu sâu sắc tiềm ẩn bên dưới vẻ ngoài thuộc linh đáng nể.
 2) Khả năng phong phú và dịp tiện để chăm lo cho những nhu cầu sâu kín này cách mạnh mẽ. Có một rào chắn giữa đôi vợ chồng này khiến họ không thể tiếp cận nhau cách có ý nghĩa. Bức tường ngăn cách có chức năng giống như cửa kính ngăn cách hai người muốn hôn nhau: tất cả những cử động cần thiết đều có đó, nhưng không hề có cảm giác - chỉ là tấm kính lạnh lẽo. Chỉ có cách thận trọng chuyển từ sự dấn thân cho vận dụng đến dấn thân giúp đỡ mới làm vỡ được bức rào chắn cho phép một mối quan hệ phong phú, thân thiết, đầy trọn của Hiệp nhất Tâm hồn. Chúng ta hãy xem điều này có nghĩa gì?
II. MỤC TIÊU CHÍNH XÁC CỦA BẠN LÀ GÌ?
 Chúng ta làm gì cũng có mục tiêu. Chúng ta không phải là những con vật được huấn luyện để hành động cách tự phát, không suy nghĩ, theo một đáp án đã định sẵn - Chúng ta cũng không phải là những nạn nhân bất hạnh của những thế lực tâm lý nội tại không ngừng lái chúng ta về những hướng mình không muốn. Dù nhiều lúc có cảm tưởng như chúng ta làm những điều mình không muốn, sự thật là mỗi việc chúng ta làm đều bày tỏ một cố gắng đạt tới mục tiêu mà dù sao, có lẽ ở một mức độ vô thức, cũng có ý nghĩa với chúng ta. Có những điều tin tưởng được ghi khắc trong bản chất của chúng ta về cách thức làm thế nào để được xem là có giá trị hoặc làm sao tránh khỏi tổn thương lòng tự trọng của mình, làm sao để có hạnh phúc hoặc làm cách nào tránh đau khổ. Khi còn bé, chúng ta có được những ý tưởng về cuộc đời qua việc quan sát bố mẹ (điều gì khiến họ hạnh phúc, vì sao họ thất vọng) thầy cô, truyền hình hoặc những điều tương tự.
Vì cớ Satan là vua của thế gian này và vì bản chất sa ngã của chúng ta tự nhiên khiến chúng ta lập kế hoạch cho cuộc đời mình mà không kể gì đến Chúa. Mỗi chúng ta triển khai những niềm tin sai lạc về cách thức tìm ý nghĩa và tình yêu chúng ta cần. Một niềm tin về điều tôi cần sẽ gợi ý cho mục tiêu mà tôi theo đuổi. Nếu tôi tin rằng tôi cần thức ăn để sống, tôi sẽ nhắm mục đích là đến tiệm tạp hoá. Niềm tin định hướng cho mục tiêu.
Giả dụ có một cậu bé bị cha mẹ bỏ bê vì họ còn mải mê kiếm tư lợi. Cậu ta có thể phát triển một niềm tin rằng chẳng có ai đáp ứng nhu cầu của cậu. Niềm tin sai lạc ấy có thể dẫn cậu đến chỗ xem hoàn toàn tự lực chính là mục tiêu cần đạt được để tránh thương tổn cá nhân. Ấn tượng để lại từ những chấn thương tâm lý thời thơ ấu là những tin tưởng sai lầm rất khó gột bỏ. Thử đoán xem điều gì sẽ xảy ra khi một cô bé con thấy mẹ khóc vì bố không về nhà ban đêm. Cô bé bất hạnh này có thể học được một niềm tin rằng đàn ông gây tổn thương cho phụ nữ. Rồi cô có thể (trong vô thức) đặt mục tiêu cho mình là sẽ không để nam giới làm tổn thương. Khi cô lập gia đình, mục tiêu của cô sẽ khiến cô giữ mình, không bao giờ để mình thoải mái trong tình yêu của chồng, cũng không khi nào hiến dâng chính mình cách thoải mái cho chồng.
Một cậu bé có cha bận rộn suốt với sự thành đạt trong kinh doanh sẽ có thể học được một điều tin tưởng rằng muốn cảm thấy hài lòng (hoặc thấy mình có ý nghĩa) là “phải thành đạt” - (Chú thích: “Có lẽ ...’nhơn tội tổ phụ phạt đến con cháu trải ba, bốn đời’ (XuXh 34:6-7) chính là việc cha mẹ làm gương cho con qua việc dạy những sự tin tưởng sai lạc vào cách thức làm cho mình có ý nghĩa). Thế là mục tiêu của cậu là có địa vị và được nể trọng. Khi cậu biết yêu, mục tiêu tội lỗi của cậu sẽ khiến cậu tìm cho mình một người phụ nữ có ích cho cậu trên đường danh vọng.
Đến đây xin chúng ta ôn lại những điều đã đề cập:
1) Chúng ta phát triển những điều tin tưởng sai lạc về cách trở nên an toàn và có ý nghĩa (hoặc tránh bất an và vô nghĩa).
2) Những điều tin tưởng ấy sẽ phác họa mục tiêu và hướng chúng ta đến điều chúng ta phải làm. Mục tiêu này trở thành nguyên tắc sống mà qua đó chúng ta thể hiện những cố gắng của mình.
3) Cách tốt nhất để hiểu tại sao chúng ta làm như thế là hỏi “Chúng ta đang cố gắng đạt được điều gì hay tránh điều gì?” Hoặc “Mục tiêu của chúng ta là gì?”. Khi đã xác định được mục tiêu, chúng ta có thể nhận dạng và thách thức những tin tưởng sai lạc tiềm ẩn đằng sau những mục tiêu. Xin chú ý đến cách khái niệm về mục tiêu ảnh hưởng trên hôn nhân. Xin xem xét những tình huống sau đây:
Tình huống 1: Sau khi trẻ con đã đi ngủ, người chồng để tay lên đùi vợ và nói: Em yêu, em thật tuyệt vời, anh yêu em.
Tình huống 2: Khi người chồng ăn xong, chuẩn bị nhét giấy tờ vào đầy cặp, người vợ bảo: “Tối nay anh lại phải đi đến cơ quan nữa sao?”.
Tình huống 3: Sau một ngày mệt mỏi với 3 đứa trẻ. bà mẹ cáu kỉnh quát tháo đứa lớn nhất khi nó không làm trọn một việc được giao - Ông bố đang đọc báo nhìn lên và bảo: “Em yêu, mắng như phủ đầu con như vậy không ích gì đâu”.
Đặt giả thiết tôi yêu cầu mỗi nhân vật trong mỗi tình huống trên cho biết mục tiêu hoặc mục đích của họ - người chồng lãng mạn trong Tình huống 1 có thể nói: “Để vợ tôi biết rằng tôi yêu cô ấy”. Cô vợ thất vọng trong Tình huống 2 có thể cho biết: “Tôi chỉ muốn anh ấy gắn bó với gia đình hơn”. Còn người chồng có thiện chí trong Tình huống 3 có thể cho biết: “Tôi muốn cho cô ấy biết một cách khái quát về điều cô ấy đang làm. Tôi xem đó là một phần trong vai trò lãnh đạo thuộc linh nhằm giúp cô ấy làm tốt nhất công việc của người mẹ và vợ”.
Khi cố gắng định rõ động lực thúc đẩy sự hỗ tương giữa chúng ta với người phối ngẫu, chúng ta cần nhớ rằng nếu không có sự giúp đỡ của Thánh Linh, chúng ta khó thấy cách rõ ràng. Sự dối trá của tâm hồn khiến chúng ta khó có thể xác minh mục tiêu đích thực của mình nếu không có sự trợ giúp siêu nhiên.
Trong tình trạng sa ngã, ý thức của con người là một công cụ tuyệt vời cho sự tự lừa dối. Nó sẽ chỉ chọn những động cơ nào bảo vệ hình ảnh chúng ta thật tốt, khả ái và loại bỏ hoặc ít nhất cũng cải trang nhằm che đậy những mục tiêu vị kỷ, xấu xa mà chúng ta đang hướng tới. Chỉ có thần linh của Đức Chúa Trời giải bày lẽ thật trong Kinh thánh mới có thể cắt xuyên qua những tâm hồn dối trá của chúng ta để phơi bày động cơ vị ngã của mình. Vì thế, chúng ta cần liên tục mở lòng để Chúa soi sáng, nếu không e rằng chúng ta không thấu được mục đích của chương này: khám phá những mục đích phá hoại, tiềm ẩn đã hướng dẫn sự tương tác của nhiều cặp vợ chồng.
Chúng ta cùng nhau xem lại những tình huống ghi trên. Trong tình huống 1, người chồng si tình kia có thể đang muốn truyền đạt một thông điệp cụ thể với vợ: “Anh muốn yêu em”. Nếu phải nói thẳng thừng như vậy, anh có thể biện hộ cho mục tiêu thánh thiện của anh mà ông Phaolô đã hướng dẫn các cặp vợ chồng không được lừa gạt nhau về phương diện tình dục. (ICor 7:1-5). Có lẽ anh muốn khẩn khoản yêu cầu vợ anh đáp ứng đòi hỏi hợp lý của mình trong tinh thần ủng hộ, âu yếm. Tuy nhiên khi tìm hiểu kỹ càng thì mục tiêu của anh ta là vận động vợ đáp ứng theo cách anh ta đòi, mà không quan tâm lắm, hoặc nếu có cũng chỉ sơ sài, đến nhu cầu cảm thấy được yêu thương và cảm thông của người vợ hơn là bị ép buộc và sử dụng.
 Một anh chồng kia phản ứng với ý kiến này như sau: “Nhưng vợ tôi đâu có lý do gì mà cảm thấy bị hắt hủi hay không được yêu. Tôi yêu cô ấy mà, tôi chỉ mong cô ấy âu yếm hơn thôi. Thế cũng sai sao?”
Rõ ràng là không có gì sai và mọi sự đều đúng trong mối quan hệ thể xác đầm ấm khoái cảm. Không có gì sai khi đòi hỏi quan hệ xác thịt và mong đợi vợ hưởng ứng - và cho vợ biết yêu cầu của mình. Nhưng nếu chỉ được thúc đẩy bởi mục đích đạt được sự hưởng ứng của người bạn đời nhằm thỏa mãn dục vọng riêng, cho dù điều đó có hợp lý đến đâu đi nữa, vẫn là vi phạm tình yêu và vì vậy điều đó là sai. Tình yêu được định nghĩa cách cơ bản dưới dạng sự chú tâm đến nhu cầu của tha nhân. Trọng tâm của mỗi cuộc trao đổi giữa vợ chồng phải là chăm sóc cho những nhu cầu sâu kín nhất của nhau là an toàn và ý nghĩa. Tôi có quyền đòi hỏi vợ tôi đáp ứng cách đặc biệt, nhưng nếu vì lý do gì đó, vợ tôi không đáp ứng đúng nhu cầu tôi mong ước, thì tôi phải tôn trọng mục tiêu giúp đỡ của tôi qua việc chấp nhận không phàn nàn, không nài ép người bạn đời đang thất vọng của tôi. Sự chấp nhận này xuất phát từ việc tôi ý thức nhu cầu sâu kín của vợ trong tình yêu và sự tận tâm làm tất cả những gì có thể làm để có thể vươn tới những nhu cầu của cô ấy.
Khi một người chồng hoán đổi mục tiêu chăm sóc nhân danh tha nhân bằng mục tiêu vận động nhân danh cá nhân mình, anh ta phạm tội trọng vì đã bóp méo tình yêu của Chúa đối với cô dâu của Ngài.
Bây giờ sang Tình huống 2: khi người vợ khẽ khàng hỏi “Tối nay anh lại đến cơ quan làm việc nữa sao?” Bạn cho rằng mục đích thật của cô ấy là gì? Mục tiêu không che giấu là bằng cách nào đó thuyết phục chồng ở nhà. Khi người vợ theo đuổi mục tiêu này, bạn hãy để ý trọng tâm của cô không phải nhắm vào nhu cầu được tôn trọng và chấp nhận của chồng, nhưng chú ý đến ước ao của cô là được chồng thỏa đáp mong mỏi của mình. Cô ấy vặn lại người tư vấn: “Nhưng anh ấy hiếm khi ở nhà với tụi nhỏ lắm. Chúng nhớ anh ấy kinh khủng và đã than thở với tôi. Ông không cho rằng một người cha cần phải dành nhiều thời gian cho bọn trẻ đang thèm được chú ý hay sao? Đó không phải là một phần trong trách nhiệm Cơ đốc à?”
 Câu trả lời tất nhiên là đúng. Nhưng nhận định của cô ấy còn chưa đề cập đến điểm chính. Vấn đề người vợ cần quan tâm không phải là “Chồng tôi phải làm gì?” mà là “Mục tiêu cơ bản của tôi khi tôi tương tác với anh ấy là gì? ” Mục tiêu chính yếu khi cô ấy yêu cầu chồng ở nhà không chỉ là bày tỏ ước muốn của mình, mục tiêu đích thực của người phụ nữ này là vận động chồng làm điều mà cô ta tin rằng anh ấy phải làm. Điều tôi quan tâm là động cơ của cô ấy chứ không phải sự đáp ứng đúng đắn cô mong nơi người chồng. Trong khi cô ấy cố thuyết phục chồng làm điều cô ta cho là tốt, cô không hề có một chút ý tưởng nào về sự hy sinh cho nhu cầu cảm nhận sự đầy đủ và tôn trọng của anh ấy. Do đó, động cơ của cô là sai và hành động của cô sẽ đưa cuộc hôn nhân xa rời sự Hiệp nhất Tâm hồn.
Người chồng trong Tình huống 3, khiển trách vợ vì nặng lời với con, dường như nhận thấy sai sót của vợ và chú ý đến nhu cầu của vợ. Mục tiêu của ông ta rõ ràng là để sửa sai lỗi của vợ chứ không phải chăm sóc cho cô. Nếu chúng ta có thể ghi âm bộ óc của ông, khi ngồi nghe vợ mắng con, có lẽ cuốn băng đã ghi thế này: “Tôi cho rằng vợ tôi đối xử với con cái như vậy là không đúng, nhưng tôi muốn thận trọng trong khi phát biểu để không tỏ ra hắt hủi hay chỉ trích cô ấy. Trên hết mọi sự, tôi muốn vợ tôi biết rằng tôi yêu cô ấy”. Vì anh không có ý định chăm sóc, mục tiêu đích thực của ông là cho vợ biết ông bất bình với bà để mong bà sẽ nói nhẹ nhàng hơn với đứa trẻ. Khi mục tiêu của hành vi chúng ta là sửa đổi người khác - dù sự sửa đổi ấy tốt hay xấu - chúng ta đều sai. Trừ phi có mục đích bày tỏ tình yêu dựa trên ý thức về nhu cầu của người bạn đời, chúng ta xứng đáng là người vận động chứ không phải người chăm sóc. Chìa khóa dẫn đến Hiệp nhất Tâm hồn là duy trì mục tiêu chăm sóc chủ yếu vào những nhu cầu sâu kín của người bạn đời và giữ cho mục tiêu ấy không bị vi phạm .
III. NGUYÊN TẮC GIÚP ĐỠ
Ông Phaolô đã dạy chúng ta trong Eph 4:29: “ Chớ có một lời dữ nào ra từ miệng anh em; nhưng khi đáng nói hãy nói một vài lời lành giúp ơn cho và có ích cho kẻ nghe đến”. Chữ “lời dữ” ám chỉ điều vô bổ sẽ thối rữa, hư hỏng. Ông so sánh những lời dữ vô giá trị và lời lành còn tồn tại vì mục đích rõ ràng: đáp ứng nhu cầu của người khác.
Tôi tin rằng ở đây ông Phaolô đặt ra nguyên tắc chính liên quan đến sự tương tác giữa các Cơ Đốc nhân. Chắc chắn nguyên tắc này cho những người chung sống trong mối quan hệ hôn nhân -Tôi sẽ không nói điều gì khiến thay đổi mục tiêu cơ bản là chăm nom cho nhu cầu của người tôi đang đối thoại. Khi tôi nói những lời nhằm mục đích thay đổi người kia mà không quan tâm đến hạnh phúc của người đó thì những lời nói ấy vô giá trị, vì những lời nói ấy không nhằm mục đích vĩnh hằng và sẽ tan biến.
Trong hôn nhân, những lời nói không thích hợp với sự tận tâm chăm sóc, xa lạ với hoạch định của Đức Chúa Trời sẽ không thể giúp tiến đến Hiệp nhất Tâm hồn. Người chồng lãng mạn có thể thuyết phục vợ để cùng chăn gối; người vợ bất hạnh có thể thuyết phục chồng ở nhà; người chồng khiển trách vợ có thể làm áp lực để lần sau người vợ không to tiếng với con cái trước mặt chồng - nhưng không ai đạt được sự hiệp nhất cả. Có thể có thay đổi, sự thay đổi có vẻ như một sự tiến bộ, nhưng cái cảm nhận vốn được chờ đợi để tiến đến sự thân mật gần gũi sẽ không nảy nở.
Xin cho tôi xác định đầy đủ hơn về nguyên tắc giúp đỡ mà sự Hiệp nhất Tâm hồn dựa vào đó để hình thành:
Những người chồng, người vợ phải xem hôn nhân là cơ hội để chăm lo cách đặc biệt và duy nhất cho một con người, cơ hội được Chúa sử dụng để đem người phối ngẫu đến sự cảm thông thỏa mãn hơn về giá trị của họ như một con người được an toàn và có ý nghĩa trong Chúa Jêsus Christ.
Hãy chú ý điểm chính yếu trong nguyên tắc này: chính Chúa Jêsus Christ là Đấng ban sự an toàn và ý nghĩa cho chúng ta. Tình yêu tôi dành cho vợ tôi không thêm một chút gì vào thực tiễn là vợ tôi được hoàn toàn và vĩnh viễn an toàn trong tình yêu của Đấng Christ. Nếu tôi có thất bại trong tình yêu đáng phải có dành cho nàng cũng chẳng xóa được sự kiện nàng được an toàn.
Nhưng tình yêu hiện thời, xác thực của tôi có thể đem lại cho vợ tôi một cảm nhận sâu lắng hơn về ý nghĩa của việc được yêu . Tôi không thêm vào sự kiện an toàn của cô ấy, nhưng tôi có thể thêm vào cảm giác về sự an toàn. Tương tự như thế, sự tôn trọng qua việc vâng phục của nhà tôi đối với tôi không gia tăng ý nghĩa của tôi trong vai trò tôi tớ của Đấng Christ, nhưng nó làm cho tôi càng ý thức hơn sự thích đáng Chúa ban cho tôi. Tình huống này cũng giống như việc có một người khám phá ra mỏ dầu trên đất của tôi. Anh ta không làm cho tôi giàu lên, tôi vốn giàu trước khi anh ta khám phá ra mỏ dầu, nhưng chỉ đến khi anh ta làm cho tôi nhận ra mình có mỏ dầu tôi mới kinh nghiệm sự giàu có của tôi. Những ông chồng không làm cho vợ được an toàn, những bà vợ cũng không làm cho chồng thấy mình có ý nghĩa. Chỉ có Đấng Christ mới có thể làm điều ấy. Và Ngài thực hiện điều này ngay khi một người đặt lòng tin cậy trong Ngài như Cứu Chúa và chủ đời mình. Nhưng những ông chồng bà vợ có thể giúp củng cố lòng tin của người bạn đời nơi giá trị của mình và đem họ đến với sự vui hưởng đầy trọn hơn sự giàu có trong Đấng Christ.
Cặp vợ chồng nào khai triển cách chắc chắn sự Hiệp nhất Linh hồn xem như thủ đắc niềm phấn khởi của thiên chức hôn nhân. Có thể tác động cách sâu sắc lên một người khác bằng cách thức thế nào đó để họ ý thức đầy đủ sự trọn vẹn trong Đấng Christ là cả một cơ hội ly kỳ. Một Đức Chúa Trời chủ tể đã chọn tôi, giữa hàng tỉ người đàn ông từng có mặt trên trái đất này, để làm một nhiệm vụ mà Chúa không giao cho bất cứ ai khác: chức vụ yêu thương vợ tôi bằng tình yêu tận hiến duy nhất của một người chồng. Thật buồn làm sao khi nghĩ đến những người chồng, người vợ sống với nhau chỉ bằng bổn phận hoặc trách nhiệm!.
IV. NGUYÊN TẮC VẬN DỤNG (Và cách nó phá hủy sự Hiệp nhất Tâm hồn )
Để hiểu rõ hơn tại sao nguyên tắc giúp đỡ là nền tảng cần thiết để phát triển sự Hiệp nhất trong hôn nhân, chúng ta sẽ xem xét một thí dụ về cách một nguyên tắc ngược lại (nguyên tắc vận dụng có thể phá hỏng mối quan hệ như thế nào).
 Bố mẹ của Mary ly dị nhau khi cô ấy mới 7 tuổi. Sau khi ông bố bỏ đi,ông hiếm khi thăm viếng hoặc tỏ ra quan tâm yêu thương cô. Mẹ của Mary chưa hồi phục sau khi ly dị và hầu như trong suốt những năm tháng Mary lớn lên, mẹ cô chỉ bận tâm đến việc kiếm cho đủ tiền và tìm kiếm lại lạc thú đủ để cuộc đời bà đáng sống. Chúng ta cũng dễ hiểu Mary chưa hề cảm thấy được yêu. Cô tin rằng muốn tìm được hạnh phúc mà mẹ cô đã bị vuột, cô cần lập gia đình với một người đàn ông mạnh mẽ, yêu thương cô, người sãn sàng dấn thân xa hơn vào cuộc đời cô. Bên dưới nhu cầu yêu thương này tiềm ẩn một nỗi day dứt: “Tôi có tìm được tình yêu thương tôi cần không?” Chúng ta có thể vẽ một vòng tròn tượng trưng cho Mary với nỗi lo sợ sâu kín tận trong thâm tâm. Chúng ta dùng dấu trừ để chỉ sự bất an lo sợ của cô.
Bố của Bob là một luật sư thành đạt, qua cách ông sử dụng thì giờ, thấy ông đánh giá cao uy tín và địa vị trên tất cả mọi sự. Theo đánh giá của chàng trai trẻ Bob, công việc và điạ vị của bố anh dường như đem lại nhiều thỏa mãn cho ông. Vì quan sát như thế nên Bob hình thành một quan niệm rằng sự hiện hữu của một con người có giá trị hay không tùy thuộc vào sự thành đạt. Suốt thời trung học và đại học, Bob nuôi dưỡng một nỗi lo riêng không biết mình có đạt được mục tiêu là thành tựu trong tài chánh và điạ vị hay không. Chúng ta có thể vẽ một vòng tròn tượng trưng cho con người của Bob với cái dấu trừ ở tâm biểu thị cho nỗi lo rằng mình không thể thành đạt trong mục tiêu đã chọn.
Chúng ta hãy ngẫm nghĩ về tình trạng tâm lý của hai người này khi một lúc nào đó họ lập gia đình. Mary tin rằng sự an toàn đòi hỏi cần phải có mối quan hệ với một người mạnh mẽ, chung thủy chứ đừng giống như bố cô; vì thế mục tiêu của cô là tìm một người đàn ông có đủ phẩm chất như vậy và nhận sự an toàn từ người ấy. Bob tin rằng ý nghĩa chỉ có khi thành đạt nhưng anh lại thiếu tự tin vào khả năng để đạt sự thành công anh cần có. Do đó, mục tiêu của anh trước hết là xem mình thích hợp và sau đó theo đuổi để thành đạt trong công việc.
Trong thời gian theo đuổi, Mary thích sự quan tâm của Bob, lắng nghe chăm chú từng lời Bob nói, cười vui vẻ mỗi khi Bob khôi hài, và tỏ ra thán phục trước những ưu điểm của anh. Đối với Mary anh tỏ ra là một người đàn ông mạnh mẽ, tự tin, tích cực và đáng yêu. Bob thấy thoải mái bên cạnh Mary và thế là kết luận rằng anh ta đã yêu. Nhưng cái mà Bob tưởng lầm là tình yêu thật ra chỉ là sự hấp dẫn đến với người phụ nữ làm cho anh được củng cố thêm ý thức về sự xứng đáng của mình. Mary tưởng lầm sự nhiệt tình của Bob là tình yêu chân thật và xem anh như phương tiện để nhận thức sự an toàn cô ao ước đã lâu và ngại rằng mình chẳng khi nào có được. Những cảm giác thân thiết của cô đối với Bob chỉ dựa trên điều cô tưởng Bob sẽ làm cho cô mà không đặt trên hy vọng gây ấn tượng tích cực trên đời sống Bob. Bởi vì mỗi người đều mong mỏi người kia cung ứng cho nhu cầu riêng tư của mình, nên mối quan hệ “con ve với con chó” không thể phát triển thành sự Hiệp nhất Tinh thần. Và bởi vì động cơ của họ là vị kỷ, họ thiếu nguyên tắc giúp đỡ mà lại xây dựng mối quan hệ trên nguyên tắc vận dụng. Hãy cùng xem cách thức mà động cơ vận dụng ngăn chận sự phát triển sự Hiệp nhất Linh hồn. Trong mấy tháng đầu sau khi cưới, cũng như bao nhiêu cô dâu khác, Mary bị chồng xúc phạm trong vài trường hợp. Một bữa ăn chuẩn bị chu đáo không nhận được một lời khen, thái độ “vô tư” của chồng không giúp đỡ việc nhà khiến cho việc cô làm mất đi giá trị; ước ao được ôm ấp nhiệt tình của cô thường bị kết thúc trong phòng ngủ do Bob quá khăng khăng đòi hỏi; một cái chắn bùn xe bị trầy xướt liền nhận được lời nhận xét khinh miệt. Mỗi kinh nghiệm tổn thương đánh mạnh vào vòng tròn cá nhân của cô và nỗi sợ hãi lo sợ ngủ yên lâu nay bị đánh thức: “Mối quan hệ này có làm tôi đau khổ không? Tôi không thể chịu nổi sự thất vọng khi hi vọng được yêu thương của tôi tan biến nhanh như thế” Để làm dịu nỗi đau đang dâng trào, Mary thu mình trong lớp vỏ bọc để tránh bị tổn thương hơn nữa. Cô bắt đầu chăm chút hơn đối với nhu cầu của mình và thiếu đi động lực chăm sóc cho nhu cầu của Bob. Cô bắt đầu nghĩ: “Nếu tôi có thể làm cho anh ấy yêu tôi hơn một chút, hoặc nếu tôi xoay sở để làm cho mối quan hệ của chúng tôi cách xa đủ để anh ấy không làm tổn thương tôi nhiều, thì có lẽ tôi sẽ bớt đau khổ hơn.” Và thế là mục tiêu của cô trở thành kiểm soát mối quan hệ theo cách đã định, để hoặc đáp ứng, hoặc bảo vệ nhu cầu của mình. Nguyên tắc vận dụng được áp dụng tối đa. Cô bắt đầu buông những câu như: “Anh yêu, em ước chi anh chỉ hôn em thôi chứ đừng hôn nhằm mục đích chăn gối” hoặc “Anh chẳng thông cảm với em gì hết” hoặc “Anh đối với em không giống như hồi mình chưa cưới nhau”. Bên dưới những “bày tỏ chân tình những cảm xúc của cô” (cái trung tâm điểm của sự sai lầm và hủy hoại trong những cố gắng phi thuộc linh để xây dựng một mối quan hệ) tiềm ẩn mục đích rất thuyết phục là tránh bị tổn thương. Cuộc hôn nhân của họ bây giờ trông như thế này: Bây giờ chúng ta quay sang Bob. Mục đích anh cưới Mary cũng là vận dụng: anh muốn thấy mình khá hơn để gia tăng lòng tự tin cần có để thành đạt. Khi Mary bắt đầu tỏ ra cho anh thấy anh không đúng như cô mong ước, cảm giác xứng đáng của anh nguội dần còn nỗi lo không bao giờ đạt đến thành công lại gia tăng. Khi người ta bị tổn thương, mục tiêu tức khắc là giảm đau. Thế là Bob bắt đầu bảo vệ mình khỏi phải đối diện với sự thất bại của mình bằng cách tránh Mary. Mục tiêu của anh bây giờ là tránh khỏi viễn cảnh bị tổn thương. Không lần nào anh quan tâm khẩn cấp đến nhu cầu của mình mà thầm nghĩ đến nhu cầu thật sự của Mary, vì nỗi sợ đã trấn áp anh. Anh cũng bị nguyên tắc vận dụng chi phối.
Cái vòng lẩn quẩn bắt đầu: Bob càng tránh xa, Mary càng sợ bị hắt hủi. Nỗi sợ của cô càng tăng, cô càng cố vận động Bob bảo vệ cô. Cô càng cố gắng thay đổi anh, càng cho Bob thấy anh thất bại thì ý thức về sự bất xứng của anh càng tăng. Càng thấy mình bất xứng khi có mặt Mary, anh càng tránh cô. Anh càng tránh cô, cô càng thấy sợ. Cái vòng tròn đáng sợ cứ tiếp tục cho đến khi hai con người cô đơn thấy mình bị giam trong những bức tường dày do mình dựng lên để rồi không khi nào thực sự vươn tới bên nhau được. Bi kịch ở chỗ không chỉ hai người này là hai linh hồn lầm lạc luôn ao ước được yêu thương; họ còn là những người vị kỷ đã quá tận tình với nguyên tắc vận động, nên những bức tường của họ sẽ còn nguyên đó cho đến khi nào họ li dị hoặc chết mới thôi. Không có ai trong hai người sẵn sàng thấy được một chút ý tưởng lóe lên về việc Chúa sử dụng để giảm thiểu nỗi sợ hãi của người kia. Chỉ có một cách để thoát khỏi ngục tù tự dựng này, đó là hoàn toàn tái thiết lập mối quan hệ trên một tiền đề tương đối khác hẳn. Cả hai người phải thay đổi mục tiêu từ vận dụng sang chăm sóc. Và cuộc cách mạng cần có sự can thiệp siêu nhiên. Nếu không nó không thể nào thành công được.
V. THAY ĐỔI MỤC TIÊU
 (Theo Lary Crabb)