Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Saturday, October 20, 2018

Alexandre Yersin (1863–1943)



Một trong những người Pháp được nhiều người Việt biết đến đó là Bác sĩ Alexandre Yersin (1863-1943). Alexandre Yersin là Giám đốc của Viện Pasteur tại Đông Dương. Ông cũng là người sáng lập và là Viện Trưởng đầu tiên của Viện Đại Học Y Khoa Hà Nội. Bác sĩ Alexandre Yersin cũng là một nhà thám hiểm, một nhà nghiên cứu về canh nông và là một khoa học gia nổi tiếng trên thế giới về vi trùng học.
Alexandre Yersin là một người Thụy Sĩ, gốc Pháp, nhưng ông sống phần lớn cuộc đời của ông tại Việt Nam và chọn Việt Nam làm quê hương. Trong khi nhiều người biết Alexandre Yersin là một khoa học gia nổi tiếng, ít người biết ông là người Tin Lành, và ít người biết động cơ chính yếu đã thúc đẩy Alexandre Yersin đến Việt Nam.

Theo Giáo sư Đoàn Xuân Mựu, cựu Giám Đốc Viện Dịch Tể Đà Lạt và là một người gần gũi với Alexandre Yersin, Alexandre Yersin là một tín hữu Tin Lành. Sau vụ thảm sát những người Tin Lành Huguenots tại Pháp vào năm 1572, Hoàng đế Henry Đệ IV ban sắc chỉ cho phép người Tin Lành được phép thờ phượng trong giới hạn tại Pháp (Edict of Nantes - 1598). Tuy nhiên, đến năm 1685, vua Louis XIV thu hồi chiếu chỉ này, ban hành một chiếu chỉ mới gọi là Edict of Fontainnebleau. Sắc lệnh của vua Louis XIV đặt người Tin Lành ra ngoài vòng pháp luật. Vua Louis XIV cho các tín hữu Tin Lành Pháp hai sự chọn lựa: một là từ bỏ đạo Tin Lành trở lại Công giáo, hai là rời khỏi nước Pháp. Trước hoàn cảnh đó, tổ tiên của Yersin đã lánh nạn sang Thụy Sĩ. Yersin là hậu duệ đời thứ tám của những người Tin Lành Huguenots này. Học giả Thái Văn Kiểm, cựu Tỉnh Trưởng tỉnh Khánh Hòa, trong bài viết Thân Thế và Sự Nghiệp Bác Sĩ Alexandre Yersin (1863-1943) cũng xác nhận chi tiết trên.

1. Tiểu Sử

Alexandre Yersin sinh ngày 22/9/1863 tại Lavaux, một làng nhỏ tại tổng Vaud của Thụy Sĩ. Vào nửa đầu của thế kỷ thứ 19, các nhà truyền giáo Tin Lành tại Trung Hoa thường kêu gọi những thanh niên có trình độ học vấn tham gia vào chương trình truyền giáo qua phương tiện y khoa. Đáp lời kêu gọi đó, sau khi tốt nghiệp trung học, Yersin theo học y khoa tại Đại học Lausanne được một năm (1883-1884). Năm 1884, Yersin sang Đức học y khoa tại University of Marburg. Đây là trường đại học xưa nhất do người Tin Lành sáng lập từ năm 1527. University of Marburg cũng là trường đại học y khoa rất uy tín tại Đức. Tại đây, Yersin theo học với Emil Adolf von Behring, người vài năm sau đó đã đoạt giải Nobel Y Khoa đầu tiên của thế giới (1901). Một thời gian sau, Alexandre Yersin sang Paris (1885-1888) thực tập tại Hôtel-Dieu Paris.
Năm 1886, Yersin gặp Louis Pasteur nhà nghiên cứu vi trùng học nổi tiếng nhất thế giới vào thời đó. Ngưỡng mộ tài năng của Pasteur, Yersin xin vào làm nhân viên kỹ thuật của phòng thí nghiệm Pasteur tại École Normale Supérieure để có cơ hội nghiên cứu. Tại đây, Yersin trở thành phụ tá của Emile Roux, một học trò thân tín của Pasteur. 

Năm 1888, Yersin hoàn tất luận án tiến sĩ với đề tài Etude sur le Développement du Tubercule Expérimental (Nghiên Cứu Về Sự Phát Triển Của Bệnh Lao Bằng Thực Nghiệm). Luận án của Yersin rất ngắn chỉ hơn 20 trang với 6 minh họa, nhưng đây là những khám phá mới và quan trọng của ngành y khoa nên Yersin được ban Giáo sư của trường Đại Học Y Khoa Paris tặng huy chương đồng vào năm 1889.
Trong thời gian chờ bảo vệ luận án, Alexandre Yersin cộng tác với nhóm nghiên cứu của Emile Roux nghiên cứu về các độc tố bạch hầu. Alexandre Yersin và Emile Roux sang Đức làm việc vài tháng. Đây là những nghiên cứu tiên phong của ngành vi trùng học vào thời đó. Như đã nói ở trên, vị giáo sư dạy ông trong lĩnh vực này về sau đã được trao giải Nobel về y khoa là Emil Adolf von Behring (Nobel 1901).
Louis Pasteur và Emile Roux quí mến ý chí, tính tình và tài năng của Yersin. Hai khoa học gia này muốn mời Yersin cùng nghiên cứu lâu dài nên đã khuyên Yersin nhập tịch Pháp để được phép ở lại làm việc tại Pháp. Yersin đã làm theo lời khuyên của những người bảo trợ mình. Yersin nhập tịch Pháp vào năm 1888, tuy nhiên ông có một dụng ý xa hơn.
Hơn một năm sau khi Alexandre Yersin tốt nghiệp, ngày 14/11/1889 Viện Pasteur tại Paris được khánh thành. Yersin được mời vào làm việc tại đây với vai trò là cộng sự viên của Emile Roux. Ngoài việc nghiên cứu, Alexandre Yersin còn có trách nhiệm dạy môn vi sinh vật cho các sinh viên. Emile Roux và Alexandre Yersin là những người đầu tiên soạn giáo trình và dạy môn vi sinh vật trên thế giới.

2. Động Lực Đến Đông Dương

Mới 26 tuổi, tốt nghiệp với văn bằng tiến sĩ y khoa, được mời làm việc trong một viện nghiên cứu y khoa nổi tiếng, tại một thành phố tráng lệ vào thời đó, cuộc sống tốt đẹp và tương lai sáng lạng dọn sẵn cho nhà khoa học trẻ tuổi. Tuy nhiên, Alexandre Yersin không dừng lại ở đó. Ông đi theo một tiếng gọi cao cả hơn.
Từ nhỏ, Alexandre Yersin ngưỡng mộ David Livingstone (1813-1873), một bác sĩ và là một nhà truyền giáo Tin Lành người Anh. David Livingstone là một trong những người đã sốt sắng hưởng ứng việc truyền giáo qua phương tiện y khoa. Đáp ứng lời kêu gọi của Mục sư Charles Gützlaff, một nhà truyền giáo Tin Lành tại khu vực Đông Á, David Livingstone đã thuyết phục cha của ông cho ông học y khoa và sau đó sẽ tình nguyện đi truyền giáo qua lãnh vực y khoa tại Trung Hoa. Chẳng may sau khi David Livingstone tốt nghiệp, cuộc Chiến Tranh Nha Phiến diễn ra tại Trung Hoa. Vì tình hình tại Trung Hoa bất an nên Hội Truyền Giáo London quyết định gởi Livingstone sang Phi Châu. 

Khi đến Phi Châu, bên cạnh chức vụ giáo sĩ trong lĩnh vực y khoa, David Livingstone đã trở thành một nhà thám hiểm. Ông thực hiện nhiều chuyến hành trình xuyên Phi Châu. Ông khám phá thượng nguồn sông Nile và giúp cho thế giới biết về vẻ đẹp và sự phong phú của châu Phi. Sau khi nổi tiếng, David Livingstone dùng uy tín của mình để đấu tranh cho việc bãi bỏ nô lệ, cải tổ chế độ phong kiến và cổ võ cho việc kinh doanh. Để thay đổi Phi Châu, lúc đó được gọi là lục địa đen, khỏi tình trạng hoang sơ, David Livingstone đã hoạt động với phương châm bắt đầu bằng ba chữ C: “Christianity, Commerce and Civilization” - Cơ Đốc giáo, Kinh Doanh và Khai Hóa.
Noi gương David Livingstone, Alexandre Yersin cũng học y khoa và chờ ngày đi truyền giáo. Ông giấu kín ý định đi truyền giáo của mình cho bạn bè và những người cộng sự. Ngoài chuyện học hành nghiên cứu, Yersin đã dành nhiều thì giờ nghiên cứu bản đồ Trung Hoa và Đông Dương. 

Thế kỷ 19 là thế kỷ phấn hưng của phong trào truyền giáo Tin Lành. Các giáo sĩ tiên phong thường kêu gọi các thanh niên Âu Châu tận hiến cuộc đời để truyền bá tình yêu của Chúa cho những dân tộc tại các quốc gia xa xôi. Prong trào phục hưng trong cộng đồng Tin Lành khởi đầu từ thập niên 1730 tại Anh với các Mục sư John Wesley và George Whitefield. Trong suốt hơn 150 năm kế tiếp, các giáo sĩ Tin Lành đã hoạt động gần như mọi miền trên thế giới; tuy nhiên có vài nơi có đông dân nhưng các giáo sĩ Tin Lành vẫn chưa đặt chân tới.
Vào cuối thế kỷ 19, các tạp chí truyền giáo thường đăng lời kêu gọi: Sudan, Tây Tạng và Đông Dương là những khu vực rộng lớn đông dân nhưng vẫn chưa có giáo sĩ Tin Lành nào đến hoạt động. Alexandre Yersin và Albert Schweitzer – người nhận giải Nobel Hòa Bình 1952 – là những bác sĩ Tin Lành đã đáp ứng lời kêu gọi đó. Alexandre Yersin đến Đông Dương và Albert Schweitzer đến Gabon, Phi Châu. Bên cạnh việc chia xẻ tình yêu của Chúa cho những dân tộc đang sống trong vùng đất xa xôi, những người này đã dùng những kiến thức y tế và khoa học nâng cao cuộc sống của các dân tộc đó.
Làm việc tại Viện Pasteur Paris chưa trọn một năm, tháng 9 năm 1890 Alexandre Yersin từ chức lên tàu Messangeries Maritimes sang Đông Dương. Vì không hiểu động lực sâu kín của Yersin, các cộng sự viên và bạn bè ông kinh ngạc khi ông từ bỏ công việc nghiên cứu, giảng dạy và một vị trí quan trọng tại viện Pasteur nổi tiếng tại Paris để làm một bác sĩ trên một chiếc tàu viễn dương. Sau khi Yersin ra đi, Louis Pasteur viết trong nhật ký vào ngày 21/10/1890 như sau: “Sự thôi thúc đi đến các quốc gia xa xôi thình lình cuốn hút Yersin, và không có cách nào để giữ anh ở lại với chúng ta.” 

Là người Tin Lành gốc Pháp, Alexandre Yersin hiểu được những khó khăn mà người Tin Lành phải đối diện khi sống trong lãnh thổ Pháp. Yersin biết được lý do lúc đó vì sao tại Đông Dương những nhà truyền giáo Tin Lành không được phép hoạt động. Do đó, Yersin không xin làm giáo sĩ cho London Mission Society hoặc Paris Mission Society, những cơ quan truyền giáo Tin Lành. Yersin chỉ xin nhập tịch Pháp. Như Sứ Đồ Phao Lô trong Thánh Kinh dùng quốc tịch Roma và nghề may trại của mình đi từ nơi này sang nơi khác hầu việc Chúa, Alexandre Yersin đến Đông Dương với tư cách là một khoa học gia Pháp chứ không phải là một nhà truyền giáo Tin Lành thuần túy. Tháng 10 năm 1890, Yersin đến Sài Gòn. Tháng 7 năm 1891, trên chuyến tàu từ Sài Gòn đi Hải Phòng, Yersin bị chinh phục bởi vẻ đẹp của bờ biển Nha Trang. Yersin đã chọn thị trấn ven biển này làm nơi định cư.

3. Thời Gian Đầu Tại Việt Nam

Theo gương David Livingstone, vài tháng sau khi đến Nha Trang, Yersin bắt đầu chuyến thám hiểm đầu tiên. Vì đã đi lại nhiều lần dọc bờ biển Việt Nam bằng đường thủy, Yersin tin rằng ông sẽ tìm được đường bộ từ Nha Trang vào Sài Gòn. Từ Nha Trang, Yersin cỡi ngựa vào Phan Rí. Từ đây, ông thuê một người sắc tộc giúp ông vượt rừng lên cao nguyên Lâm Đồng.
Trong cuộc thám hiểm này, Yersin dự định tìm đường lên thượng nguồn sông Đồng Nai rồi từ đó xuôi dòng về Sài Gòn. Đoạn đường dài khỏang 500 cây số. Sau hai ngày gian nan, người dẫn đường dẫn Yersin đến Djiring (Di Linh), nhưng người này từ chối không chịu đi tiếp vì nguy hiểm. Yersin phải một mình quay lại Phan Thiết rồi từ đó trở ra Nha Trang. Thất bại không làm Yersin nản lòng, ông đã chuẩn bị chuyến thám hiểm khác.
Năm 1891, Albert Calmette, một học trò của Emile Roux, được cử sang Đông Dương thành lập phòng thí nghiệm của Viện Pasteur tại Sài Gòn. Biết được Alexandre Yersin là một nhân tài, Louis Pasteur và Emile Roux đã dặn Albert Calmette cố gắng mời Alexandre Yersin quay lại con đường nghiên cứu. Trước lời khuyên của các đồng nghiệp, Alexandre Yersin nhận lời làm việc cho Sở Y Tế Thuộc Địa tại Sài Gòn. Mối quan hệ giữa Albert Calmette và Alexandre Yersin được hình thành từ đó. Luận án tiến sĩ của Yersin nghiên cứu về nguồn gốc bệnh lao. Về sau, Albert Calmette cùng với Camille Guérin đã nghiên cứu và chế ra thuốc chủng ngừa bệnh lao mang tên Bacillus Calmette-Guérin (BCG).

4. Thám Hiểm Đông Dương

Động lực khiến Yersin đến Đông Dương không lọt khỏi tầm mắt của chính quyền Pháp. Biết được khả năng của Yersin, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã khéo léo dùng ông cho mục đích của họ. Toàn quyền Đông Dương Jean Marie Antoine de Lanessan đã nhờ Yersin lãnh đạo ba cuộc thám hiểm xuyên vùng cao nguyên Việt Nam, và về sau chính quyền Pháp yêu cầu Yersin làm những công việc cao quý khác, có lợi cho chính quyền Pháp, và để ông không còn nhiều thời giờ cho việc truyền giáo.
Ngày 29/3/1892, chính quyền Đông Dương yêu cầu Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên. Tại Phi Châu có sông Nile, tại Đông Dương có sông Cửu Long. Từ Nha Trang, Yersin ra Ninh Hòa rồi vượt vùng núi Pleiku, Kontum, theo hướng tây bắc tiếp tục đi đến sông Cửu Long tại Stung Treng thuộc miền bắc Campuchia. Từ đó, Yersin thuê thuyền xuôi dòng xuống Phnom Penh vào ngày 15/5/1892. Sau đó, Yersin đi tiếp ra Phú Quốc rồi từ đó về Sài Gòn. 

Thành công của chuyến thám hiểm đầu tiên khiến Toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan trao cho Yersin trách nhiệm khảo cứu việc mở một con đường từ Sài Gòn lên cao nguyên Trung Phần. Trong chuyến thám hiểm thứ hai này, Yersin đi đường bộ từ Biên Hòa ra Đồng Nai, lên Di Linh rồi đi tiếp đến cao nguyên Lâm Viên. Trong nhật ký ngày 21/6/1893 ghi lại hành trình chuyến đi, Yersin cho biết, có vài làng của người sắc tộc Lạt (D’Lat) nằm rải rác trong vùng này. “Từ trong rừng thông bước ra tôi sửng sờ khi đối diện một bình nguyên hoang vu giống như mặt biển tràn đầy những làn sóng màu xanh lá cây. Sự hùng vĩ của rặng Lang Bian hòa lẫn vào đường chân trời tây bắc tạo nên bối cảnh tráng lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này.” 

Trước phong cảnh xinh đẹp, khí hậu mát dịu, có hồ, thác nước, rừng thông, Yersin nhớ lại quê hương tại Thụy Sĩ. Yersin nghĩ rằng đây là một nơi rất tốt để xây dựng một thành phố nghỉ mát. Ông đề nghị chính quyền Pháp tại Đông Dương nên làm điều đó. Về sau Toàn quyền Paul Doumer trong nổ lực phát triển kinh tế Đông Dương đã thực hiện đề nghị của Yersin. Vùng đất của người D’Lat đã ở là thành phố Đà Lạt ngày nay. Cuối thập niên 1930, người Pháp dự định phát triển Đà Lạt thành thủ đô mới của Đông Dương. Sau đó Đệ Nhị Thế Chiến diễn ra và Pháp không còn kiểm soát Đông Dương nên dự án này bị hủy bỏ.
Nhiều người muốn biết tên Đà Lạt xuất phát từ đâu? Có người cho rằng đó là chữ viết tắt của Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperem – “Nơi mang lại niềm vui cho một số người và đem lại sức khỏe cho những người khác.” Tuy nhiên, tên Đà Lạt xuất phát từ chữ D’Lat trong nhật ký của Yersin. Theo Mục sư Phạm Xuân Tín, một nhà truyền giáo Tin Lành kỳ cựu tại cao nguyên miền Trung Việt Nam và cũng là một nhà ngôn ngữ học đã đặt chữ viết cho các sắc tộc thiểu số, Đa có nghĩa là xứ, Lạt là Lạch. Đa Lạt là xứ của người Lạch. Về sau, người Việt viết thành Đà Lạt. Thành ngữ La Tinh là do những người Âu Châu đặt ra từ tên Đà Lạt khi họ kinh nghiệm được những ích lợi của thành phố này. Một tên khác cũng có cùng nguồn gốc tương tự. Dran hay Đơn Dương là tên một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Tuyên Đức; và D’Ran hay Đà Rằn là tên một con sông nhỏ ở Di Linh.
Cuối năm 1893, Yersin thực hiện cuộc thám hiểm thứ ba dọc cao nguyên Trường Sơn. Từ Biên Hòa đến Đà Lạt, Yersin đi tiếp đến cao nguyên Đắc Lắc, vào tỉnh Attopeu phía nam của nước Lào. Từ đó, ông đi về hướng đông ra biển. Yersin đến Đà Nẵng vào ngày 17/5/1894. Cuộc khảo sát lần thứ ba này thăm dò một vùng đất rộng lớn trải rộng từ vĩ tuyến 11 ở phía nam đến vĩ tuyến 16 ở phía bắc, và từ sông Mekong ở phía tây đến bờ biển Việt Nam ở phía đông.

5. Cống Hiến Cho Y Khoa Thế Giới

Yersin chuẩn bị cho cuộc thám hiểm thứ tư. Ông dự định khảo cứu các vùng núi cao tại Cao Bằng, Lạng Sơn qua các tỉnh Quảng Đông, Vân Nam tại Trung Hoa tìm đến thượng nguồn sông Cửu Long. Tuy nhiên, chuyến khảo cứu thứ tư này phải bỏ dỡ vì trong năm 1894, dịch hạch bộc phát tại Quảng Đông giết chết khoảng 60.000 người. Sau đó, dịch hạch lan tràn tại Hong Kong và có nguy cơ lây sang Đông Dương. Tỷ lệ tử vong của trận dịch năm 1894 rất cao: 95% người nhiễm bệnh chết. Trước tình hình đó, chính quyền Pháp cử Yersin đến Hong Kong để nghiên cứu và tìm cách giúp đỡ.
Yersin rời Sài Gòn đi Hải Phòng ngày 2/6/1894. Từ đó, ông đón tàu đi Hong Kong. Khi Yersin đến nơi, gần phân nửa dân số Hong Kong đã di tản. Yersin lập một phòng thí nghiệm dã chiến tại Hong Kong và tập trung nghiên cứu nguồn gốc dịch hạch. Với khả năng chuyên môn về vi trùng học, chỉ trong một tuần lễ, ngày 20/6/1894, Yersin đã phát hiện ra mầm bệnh hạch. Về sau các khoa học gia đặt tên trực khuẩn đó là yersina pestis, theo tên của Yersin. Yersin là người đầu tiên chứng minh trực khuẩn này sống trong chuột và có thể lây sang người. Nguồn gốc dịch hạch đã giết hàng trăm triệu người trên thế giới suốt mấy ngàn năm qua đã được Yersin khám phá. 

Việc khám phá ra vi trùng bệnh dịch hạch làm Yersin nổi tiếng; tuy nhiên, điều quan trọng đối với ông không phải là việc tìm ra mầm bệnh mà là làm thế nào để tìm thuốc chữa bệnh. Là một người nhạy cảm và đầy lòng yêu thương, trước việc chứng kiến hàng chục ngàn người phải chết vì dịch hạch vào năm đó, năm 1895 Alexandre Yersin gạt bỏ những dự tính khác qua một bên, ông trở lại Viện Pasteur Paris cộng tác với Émile Roux, Albert Calmette và Amédée Borrel tìm cách chế huyết thanh chữa bệnh dịch hạch.
Sau khi việc nghiên cứu hoàn tất, vài tháng sau, Yersin quay lại Nha Trang thành lập một phòng thí nghiệm để chế tạo huyết thanh tại Đông Dương. Yersin tin rằng nếu Đông Dương có khả năng sản xuất đủ huyết thanh với lượng lớn thì giúp ích rất nhiều cho việc chữa trị khi dịch bệnh xảy ra tại Trung Hoa, bởi vì chỉ trong vài ngày thuốc có thể đến tay người bệnh, trong khi đó, nếu chở thuốc từ Pháp gởi sang thì phải mất hằng tháng và người nhiễm bệnh sẽ không sống sót trong khoảng thời gian đó. Cùng với phòng thí nghiệm của Albert Calmette ở Sài Gòn, cơ sở nghiên cứu tại Nha Trang là tiền thân của Viện Pasteur Đông Dương.
Để có huyết thanh chế tạo thuốc, cần phải có nhiều máu. Với uy tín sẵn có, Yersin xin chính quyền Đông Dương cấp đất để ông lập một trại nuôi ngựa cho mục đích này. Năm 1896, chính quyền Đông Dương cấp cho Yersin trại Suối Dầu. Ba năm sau (1899), Thường Trú Sứ của Pháp tại Trung Kỳ cấp cho Yersin thêm 500 mẫu đất tại Khánh Hiệp gần Diên Khánh. Huyết thanh sản xuất từ những trại nuôi ngựa này đã giúp cứu sống hằng trăm người mắc bệnh dịch hạch tại Ấn Độ và Trung Hoa trong những năm về sau.

6. Cống Hiến Cho Việt Nam

Sống với dân Việt Nam, Yersin biết trâu bò là nguồn năng lực cho nhà nông. Sẵn có đất, Yersin mở rộng nghiên cứu việc chữa bệnh cho gia súc. Trung tâm thí nghiệm của Yersin trở thành viện thú y đầu tiên ở Đông Dương.
Biết được uy tín của Yersin, năm 1902 Toàn Quyền Paul Doumer yêu cầu Yersin ra Hà Nội giúp thành lập Đại Học Y Khoa Hà Nội. Hai năm sau, Đại Học Y Khoa Hà Nội khánh thành (1904). Đây là trường đại học y khoa đầu tiên của Đông Dương. Alexandre Yersin là Viện Trưởng đầu tiên của trường này.
Bên cạnh việc sáng lập, Yersin có trách nhiệm chiêu sinh cho trường Đại Học Y Khoa Hà Nội. Vào thời gian đó, chính quyền Đông Dương muốn lấy lòng dân Việt Nam nên tổ chức nhiều chương trình giáo dục, văn hóa, thể thao cho giới trẻ nhưng đa số thanh niên Việt Nam vì tinh thần chống Pháp nên bất hợp tác. Làm thế nào để kêu gọi sự hợp tác của thanh niên Việt Nam, đó là điều mà chính quyền Đông Dương lúc đó rất quan tâm. Đối với Yersin, việc chiêu sinh Việt Nam không khó, bởi vì ông có lòng thương người và ông được thanh niên Việt Nam quý mến. Nhiều thanh niên trên toàn cõi Đông Dương, phần lớn là người Việt, đã xin học tại Đại Học Y Khoa Hà Nội. 

Yersin không phải là người thích quyền hành và ông cũng không thích chính sách cai trị của người Pháp tại Đông Dương. Tuy nhiên, một số chương trình chính quyền Đông Dương yêu cầu Yersin tham gia, ông đã sẵn lòng hợp tác vì Yersin tin rằng những điều ông làm có ích cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Trong hai năm đầu, dầu giữ chức vụ Viện Trưởng Đại Học Y Khoa Hà Nội, Yersin dành nhiều thì giờ tại Nha Trang hơn tại Hà Nội. Đến năm 1904, ông xin từ chức để dành trọn thì giờ nghiên cứu tại Nha Trang.
Năm 1905, phòng thí nghiệm của Yersin ở Nha Trang được nâng cấp trở thành Viện Pasteur Đông Dương. Đây là Viện Pasteur thứ hai trên thế giới. Bên cạnh các phòng thí nghiệm tại Nha Trang và Sài Gòn, trong những năm về sau, Yersin mở thêm các trung tâm nghiên cứu tại Hà Nội (1920) và Đà Lạt (1936). 

Trở lại việc thám hiểm khảo sát Đông Dương, trước Yersin, người Pháp đã thực hiện vài cuộc thám hiểm Đông Dương do Doudart de Lagree và Francois Garnier (1860) và Auguste Pavie (1879), tuy nhiên những cuộc khảo cứu này không chính xác và không phân tích rõ ràng như của Yersin. Trong bản tường trình về cuộc khảo cứu của mình, Yersin viết như sau: “Ở miền Nam, đất đai trù phú phù hợp cho việc làm nông. Miền Trung thích hợp cho việc chăn nuôi. Miền Bắc giàu khoáng sản. Đây là tài nguyên của dân địa phương. Chúng ta có thể trồng thêm các cây nhiệt đới như trà, cà-phê, các loại rau, trại chăn nuôi và dầu thực vật.”
Trong khi cuộc thám hiểm của Doudart de Lagree và Francois Garnier (1860) dẫn đến chiến tranh tại miền Bắc, Yersin muốn mục tiêu cuộc thám hiểm của mình mang lại hòa bình và thịnh vượng. Yersin khuyên chính quyền Pháp không nên tham lam chỉ giành lợi cho mình nhưng phải chú trọng đến quyền lợi của người bản xứ. Về sau, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã làm theo rất nhiều đề nghị của Yersin.
Không chờ chính phủ Pháp thực hiện lời đề nghị của ông, khi có đất, Yersin bắt đầu thực hiện việc nghiên cứu những cây trồng mang lại ích lợi lâu dài cho Việt Nam. Hai mươi lăm năm còn lại của cuộc đời, Yersin đã chú tâm vào việc nghiên cứu thực vật. Yersin cho nhập các giống trà, cà phê, ca cao, cao su, cọ, dừa, các loại cây ăn trái, dâu, mận, cà-rốt, bắp cải, sú-lơ. Ông cho trồng thí nghiệm những loại cây và rau này trên những loại đất và địa hình khác nhau. Sau khi nghiên cứu, Yersin hướng dẫn cách trồng và giới thiệu cho nhà nông. Năm 1915, Yersin cho trồng cây ký ninh tại Hòn Bà để chiết dược thảo làm thuốc trừ sốt rét. 

Năm 1916, Alexandre Yersin được mời vào Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp. Năm 1927, Yersin được trao tặng giải Lecomte của Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp. Sau khi Pasteur, Roux, Calmette lần lược qua đời, năm 1934, Alexandre Yersin được mời làm giám đốc danh dự Viện Pasteur Paris. Chức vụ này buộc ông mỗi năm phải về Pháp một lần để họp. Năm 1940, Yersin về thăm Pháp lần cuối cùng trước khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ.
Năm 1943, sau hơn 50 năm sống tại Việt Nam, Alexandre Yersin qua đời tại Nha Trang. Học giả Thái Văn Kiểm viết: “Và sáng sớm ngày 1/3/1943, từ Viện Pasteur Nha Trang, ông nhìn lần cuối cùng về biển Nam Hải, rồi ông nhắm mắt từ giả cõi đời trở về nước Chúa.”
Lúc Yersin qua đời, người Nhật đã chiếm Đông Dương, tại Pháp nước Pháp cũng mất vào tay người Đức, do đó chính quyền Pháp không thể làm gì để vinh danh ông. Theo ước nguyện của Alexandre Yersin, ông được an táng tại Suối Dầu. Do Yersin không có thân nhân tại Việt Nam, một số người Việt vì lòng yêu mến Yersin đã chăm sóc phần mộ của ông. Vì không biết Yersin là người Tin Lành, nhiều người đã thắp hương, cúng giỗ, trái với niềm tin của ông.

7. Công Tác Truyền Giáo

Khi đến Đông Dương, Yersin đã không nói cho chính quyền Pháp động cơ của ông là làm giáo sĩ trong lĩnh vực y khoa. Tuy nhiên, Yersin đã không giấu điều đó với mẹ ông. Trong một bức thư gởi cho mẹ mình, Yersin đã viết:
Tu me demandes si je prends goût à la pratique médicale. Oui et non. J’ai beaucoup de plaisir à soigner ceux qui viennent me demander conseil, mais je ne voudrais pas faire de la médecine un métier, c’est-à-dire que je pourrais jamais demander à un malade de me payer pour des soins que j’aurais pu lui donner. Je considère la médecine comme un sacerdoce, ainsi que le pastorat. Demander de l’argent pour soigner un malade, c’est un peu lui dire la bourse ou la vie.
Lược dịch: 

Mẹ hỏi con có thích hành nghề y khoa hay không. Có và không. Con có nhiều niềm vui khi điều trị những người đã đến gặp con để được hướng dẫn, nhưng con không bao giờ coi y khoa là một nghề, phải nói rằng không bao giờ con có thể đòi tiền người bệnh cho việc chăm sóc họ. Con coi y khoa như là một chuyên môn và là một mục vụ. Đòi tiền để chăm sóc bệnh nhân chẳng khác nào nói với người đó rằng: tiền hay mạng sống.
Yersin viết: “Con coi y khoa như là một mục vụ.” Yersin dùng chữ mục vụ - le pastorat là chữ dùng để diễn tả công việc của người chăn bầy; là từ ngữ mà những người Tin Lành thường dùng để mô tả chức vụ của một mục sư hay những người hầu việc Chúa. Alexandre Yersin đã đến Việt Nam như là một nhà truyền giáo trong lĩnh vực y khoa và ông đã thực hiện điều đó.
Yersin là người trầm lặng. Không giống như những nhà truyền giáo bình thường, Alexandre Yersin đã không giảng về Chúa nhưng đã trình bày tình yêu của Chúa theo cách riêng của ông. Giống như Chúa Giê-xu, Yersin đã sống để bày tỏ tình yêu. Những người Việt sống gần Yersin biết ông và quý mến ông. Họ thấy Yersin có một điều gì là lạ, khác với nhiều người Pháp vào lúc đó, nhưng không biết đó là điều gì. Những người đã tiếp xúc với Yersin đều biết ông là một người đạo đức và đầy lòng nhân ái.
Trong Thánh Kinh, Chúa Giê-xu dạy rằng người chăn bầy chân thật phải hy sinh cho bầy chiên của mình. Yersin đã chọn những người nghèo tại Việt Nam là bầy chiên của ông và Yersin đã hy sinh phần lớn cuộc đời của ông cho họ. Noel Bernard, cựu Giám đốc Viện Pasteur tại Sài Gòn đã viết rằng Yersin đã hy sinh cuộc sống cá nhân cho lý tưởng. Ông xem thường danh vọng và những cơ hội thăng tiến. 

Yersin không phải là một nhà truyền giáo bình thường. Trong suốt hơn 50 năm Yersin sống tại Việt Nam, chúng ta không rõ có bao nhiêu người tin nhận Chúa qua chức vụ của ông. Mục sư Jacques Pannier cho biết một số phụ tá của Yersin là tín hữu Tin Lành. Điều mà chúng ta biết là nhiều người Việt quý mến Alexandre Yersin. Ngày nay, một số địa phương tại Việt Nam có những đường phố và trường học mang tên Alexandre Yersin. Đây là một vinh dự hiếm hoi ít người Tây Phương nào có được tại Việt Nam.
Bên cạnh di sản tình cảm đó, Yersin đã góp phần quan trọng trong việc truyền Tin Lành tại cao nguyên Việt Nam. Như David Livingstone ở Phi Châu, Alexandre Yersin đã thực hiện nhiều cuộc thám hiểm khảo cứu Đông Dương. Trong khi chính quyền Đông Dương chỉ yêu cầu Yersin thăm dò địa hình và tài nguyên, Alexandre Yersin đã chú trọng đến việc nghiên cứu con người. Những ghi chú của Yersin trong các cuộc thám hiểm ghi lại sự phân bố các dân tộc thiểu số cùng phong tục và tập quán của họ. Những tài liệu căn bản về nhân chủng học này đã giúp các nhà truyền giáo Tin Lành trong việc truyền giáo cho các dân tộc thiểu số tại Việt Nam trong những năm về sau. 

Alexandre Yersin cũng giữ liên lạc với các mục sư người Pháp tại Việt Nam. Mục sư Jacques Pannier, quản nhiệm Hội Thánh Tin Lành Pháp tại Hà Nội, trong bút ký Trois ans en Indochine (Ba Năm Ở Đông Dương), cho biết ông đã đến thăm Yersin vào cuối tháng 11 năm 1901 tại Nha Trang. Một lần khác, Mục sư đã ăn tối với Yersin, cùng một người cháu của triết gia Jean-Jacques Rousseau, vào ngày 26/5/1902 tại Hà Nội nhân dịp kỷ niệm ba năm Yersin làm Viện Trưởng Đại học Y Khoa Hà Nội. Có lẽ qua sự cố vấn của Yersin, Paul Monet, một nhà truyền giáo Tin Lành Pháp, đã tập trung nổ lực truyền giáo cho sinh viên và thanh niên tại Hà Nội. Một số sinh viên Việt Nam tham dự Câu Lạc Bộ Thanh Niên của Paul Monet là sinh viên Đại Học Y Khoa Hà Nội, là trường đại học do Yersin sáng lập; cùng sinh viên học sinh của những trường khác. Những người đã tham gia sinh hoạt tại Câu Lạc Bộ Thanh Niên Tin Lành Hà Nội là Phạm Duy Khiêm, anh trai của nhạc sĩ Phạm Duy, về sau đã trở thành Đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp; và Hoàng Minh Giám, Bộ trưởng Ngoại Giao và Bộ Trưởng Văn Hóa của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

8. Vài Nhận Xét

Alexandre Yersin là một con người trầm lặng và cũng là một nhà truyền giáo trầm lặng. Yersin đã từ bỏ những danh vọng để đi theo tiếng gọi của Chúa. Yersin theo Chúa và hầu việc Ngài cách âm thầm; thậm chí hằng trăm năm sau vẫn ít người biết đến.
Với những cơ hội đã có, Yersin có thể chọn con đường dễ dàng hơn để thành đạt. Nếu Yersin ở lại Pháp, làm việc với Viện Pasteur Paris, Yersin không thiếu cơ hội để nghiên cứu và có thể nhận giải thưởng Nobel về Y Khoa như một số đồng nghiệp của ông là Emil Adolf von Behring (Nobel 1901), Alphonse Laveran (Nobel 1907), và Charles Nicolle (Nobel Prize 1928). 

So với các giải Nobel Y Khoa khác, công trình nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của bệnh dịch hạch và sự thành công trong việc phát minh ra thuốc ngừa dịch hạch là những công trình nghiên cứu rất quan trọng. Trước khi Yersin khám phá ra nguyên nhân của dịch hạch, mỗi năm hàng chục ngàn người trên thế giới đã chết vì bệnh này. Trong thế kỷ 14-15, hàng triệu người tại Âu Châu đã chết vì dịch hạch. Nhiều thành phố làng mạc đã bị xóa tên hẳn trên bản đồ. Theo một ước tính của một số nhà nghiên cứu, dịch hạch đã làm dân số thế giới giảm từ 450 triệu xuống 350-375 triệu người trong thế kỷ thứ 15.
Để được xét duyệt giải Nobel, các ứng viên cần có người giới thiệu và vận động. Các quốc gia liên hệ với Yersin là Thụy Sĩ, Pháp, Việt Nam có thể làm điều đó; tuy nhiên có lẽ điều này trái với nguyện ước của Yersin nên không ai thực hiện. Công tác nhân đạo của Yersin cũng xứng đáng để nhận Nobel Hòa Bình như Albert Schweitzer, một nhà truyền giáo Tin Lành trong lĩnh vực y khoa, đã nhận vào năm 1952. Tuy nhiên, Yersin đã không tìm kiếm những vinh quang đó.
Yersin đã cống hiến rất nhiều cho Việt Nam. Ngoài việc chế tạo huyết thanh trừ dịch hạch, việc sáng lập ngành thú y Việt Nam, việc nghiên cứu về nông lâm súc, việc trồng cây ký ninh đã dẫn đến thành công trong việc chế tạo thuốc trừ sốt rét là một bệnh nguy hiểm tại Việt Nam và Á Châu vào lúc đó. Đây cũng là một đóng góp rất quan trọng cho ngành dược tại Việt Nam. 

Nhờ uy tín của Yersin, Viện Pasteur Đông Dương được thành lập. Viện nghiên cứu này là một trong những viện nghiên cứu y khoa hàng đầu thế giới về dịch tể học vào đầu thế kỷ 20.
Giáo sư Đoàn Xuân Mượu cho biết trong suốt hơn 100 năm qua, Đại Học Y Khoa Hà Nội mà Yersin sáng lập đã đào tạo biết bao nhân tài cho Việt Nam. Các bác sĩ từ trường này đã cứu chữa biết bao người Việt trong những năm sau đó.
Yersin nổi tiếng là nhà nghiên cứu về vi sinh vật học và là một nhà nghiên cứu địa dư; tuy nhiên Yersin cũng là nhà nghiên cứu khí tượng và thiên văn. Yersin có lần nói rằng: “Tôi là người nghiên cứu thế giới vi mô nhưng làm sao tôi bỏ qua thế giới vĩ mô được.” Qua những công trình nghiên cứu địa lý, thiên văn, và qua ảnh hưởng của Yersin, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã cho thành lập Sở Địa Dư (Service Géographique), Sở Địa Chất (Service Géologique), Sở Khí Tượng (Service Météorologique), Đài Thiên Văn (Observatoire), và Hải Học Viện (Institut Océanographique). Đây là những cơ sở nghiên cứu khoa học đầu tiên của các ngành này tại Việt Nam. 

Từ đầu thế kỷ 20, thành phố Nha Trang được nhiều người trên thế giới biết đến nhờ Yersin định cư tại đây. Thành phố Đà Lạt và cao nguyên miền Trung được khai phá qua công trình nghiên cứu của Yersin.
Yersin cho trồng cao su tại Việt Nam vào năm 1899. Mùa thu hoạch đầu tiên đã được hãng Michellin mua; vỏ xe của Michellin ngày nay nổi tiếng khắp thế giới.
Nhờ Yersin, Việt Nam ngày nay trở thành một trong những nước sản xuất cà phê nhiều nhất trên thế giới. Những công ty trà và cà-phê Việt Nam thành công trong việc kinh doanh hiện nay một phần nhờ công khó của Yersin. Hàng trăm ngàn người Việt ngày nay có việc làm và cuộc sống ổn định nhờ trồng hoặc chế biến trà, cà phê, đào, mận, dâu, cà rốt, bắp cải, rau quả mà Yersin đã nghiên cứu trồng gần 100 năm trước. Nhiều loại rau trái cây mà người Việt dùng hàng ngày do Yersin nhập vào lúc đó.
Alexandre Yersin đã sống tại Việt Nam hơn 50 năm. Thật khó có thể phân tích đầy đủ giá trị những cống hiến của Yersin cho Việt Nam. Dân tộc Việt Nam là dân tộc có lòng tri ân. Có lẽ đã đến lúc người Việt nên làm một điều gì đó, với danh nghĩa một quốc gia, để tri ân một người đã đóng góp rất nhiều cho Việt Nam.

Tài Liệu