Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Sunday, October 7, 2018

Vương Quốc Vô Lí

VƯƠNG QUỐC THIÊN ĐÀNG.
CÁC CÔNG DÂN TRÊN ĐÓ SAY SƯA TRONG KỲ DIỆU.

“Phước cho những kẻ nghèo khổ tâm linh, vì Vương quốc Thiên Đàng thuộc về họ.” (Mat. 5:3) Hãy bắt đầu bằng câu chuyện thương lượng của một người trẻ giàu sang trong Tân Ước. Anh là một người giàu. Mang giày Italia. Y phục thời trang. Tiền bạc anh đầu tư. Thẻ tín dụng của anh loại vàng. Anh sống như anh đi phi cơ – loại hạng nhất.

Anh còn trẻ. Anh trút hết mỏi mệt trong phòng thể dục và dễ dàng thả rơi tuổi già qua rổ bóng trên sân chơi. Bụng anh bằng phẳng. Mắt anh sắc bén. Sinh lực là nhãn hiệu của anh, và sự chết thì còn xa vô tận.

Anh đầy năng lực. Nếu Bạn không nghĩ vậy, cứ hỏi anh. Bạn có những câu hỏi? Anh có những câu trả lời. Bạn có những vấn đề? Anh có những giải pháp. Bạn có những khó xử? Anh có những ý kiến. Anh biết anh sẽ đi đâu, và ngày mai anh sẽ ở đó. Anh là thế hệ mới. Vậy thế hệ cũ phải khăn gói ra đi.


Anh tốt nghiệp trường phái tam “T” của giới trẻ: Thịnh vượng. Thanh xuân. Thế lực. Anh là người giàu có... trẻ trung... và uy quyền. Cho tới nay, đối với anh đời sống là một cuộc dạo phố êm đềm dưới ánh đèn neon dài theo đại lộ. Nhưng hôm nay, anh có một câu hỏi. Một quan tâm thường tình hay một chân thành lo sợ? Chúng ta không biết. Nhưng chúng ta biết chắc anh đã đến để cầu vấn. Bởi một người quyền thế đến viếng con trai của người thợ mộc để nhờ chỉ dạy, thật lạ kỳ. Bởi một nhà quí tộc đến tìm lời khuyên bảo của một kẻ quê mùa, thì không phải cách. Nhưng đây là câu hỏi không thông thường.

Anh hỏi: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều tốt nào để được sự sống đời đời?” Lời lẽ trong câu hỏi cho thấy sự hiểu lầm của anh. Anh nghĩ rằng anh có thể chiếm được sự sống đời đời như anh chiếm được mọi thứ khác – bằng sức lực của riêng anh. “Tôi phải làm gì?” Những điều kiện nào, thưa Ngài Jesus? Thế nào là sòng phẳng? Không cần dông dài; cứ thẳng đến cuối hàng. Tôi phải đầu tư bao nhiêu để chắc chắn được bồi hoàn? Câu trả lời của Chúa Jesus khiến anh khó chịu. “Nếu ngươi muốn đi vào sự sống, thì phải tuân những phán lệnh.” Một người có phân nửa lương tâm sẽ vung tay lên ở điểm nầy. “Tuân giữ những phán lệnh? Tuân giữ những phán lệnh! Có bao nhiêu phán lệnh Thầy biết không? Gần đây Thầy có đọc Kinh Pháp không? Tôi đã thử – thật tình, tôi cố thử – nhưng tôi không thể.” Đó là điều một người uy quyền phải nói, song thú nhận là điều quá xa tâm trí anh. Thay vì cầu xin sự giúp đỡ, anh nắm lấy một cây bút chì và tờ giấy, rồi hỏi bản liệt kê. “Những thứ nào?” Anh liếm đầu bút chì và nhíu một bên lông mày.

Chúa Jesus chiều ý anh. “Chớ giết ngươi, chớ phạm tội tà dâm, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối, hãy tôn kính cha và mẹ ngươi, và yêu kẻ lân cận ngươi như chính mình.” “Hay lắm!” Anh ta nghĩ khi chấm dứt ghi chép. “Bây giờ tôi đã có bài thi đố. Thử xem tôi đậu chăng? “Giết người? Tất nhiên không. Tà dâm? À, không đứa con trai máu đỏ nào lại không làm. Trộm cắp? Một cách kiếm tiền vặt, nhưng có thể biện minh. Làm chứng dối? Hmmmm... hãy tiếp tục. Tôn kính cha và mẹ? Chắc chắn, tôi đến thăm Ông Bà trong những ngày lễ. Yêu kẻ lân cận như chính mình...?

“Hê!” Anh cười, “dễ ơt. Tôi đã làm hết thảy những điều nầy. Thật vậy, tôi đã làm tất cả từ thuở nhóc con.” Anh huyênh hoang một tí khi anh móc một ngón tay cái vào thắt lưng. Còn những phán lệnh nào khác mà Thầy vượt qua tôi?” Làm sao Chúa Jesus nín được cười – hay khóc – tôi không biết. Câu hỏi có ý cho người quyền thế thấy những điều anh hụt mất, lại giúp anh khoe mình cao hơn. Anh là một đứa bé rỉ nước trên sàn nhà trong khi nói với mẹ rằng nó không bị ướt mưa. Chúa Jesus đạt tới yếu điểm. “Nếu ngươi muốn trọn vẹn thì đem bán tài sản ngươi mà bố thí cho những kẻ nghèo, rồi ngươi sẽ được kho báu trên trời.” Lời phán nầy khiến chàng trai buồn rầu và các môn đồ bối rối. 

Hãy suy gẫm về trường hợp của Sarai. Bà đang trong thời tuổi vàng, song Thượng Đế hứa cho Bà một con trai. Bà thật nao nức. Bà đến tiệm mẫu nhi và mua một ít trang phục. Bà hoạch định tiệc mừng sắp sanh, và tân trang căn lều của Bà... nhưng không đứa con nào ra đời. Bà ăn một số bánh sinh nhật và thổi tắt nhiều ngọn nến... vẫn không có con. Bà lật những tờ lịch treo tường suốt một thập niên... vẫn chưa có con. Vậy, Sarai quyết định xử lý bằng chính tay Bà. (“Có lẻ Thượng Đế cần tôi lo việc nầy.”)

Bà thuyết phục Abram rằng thời kỳ đã hết. (“Ông ơi, nhìn xem, Ông cũng không trẻ lại chút nào!”) Bà ra lệnh cho nàng hầu, Hagar, vào lều của Abram và xem Ông cần điều chi. (“Tôi muốn nói bất cứ điều chi!”) Hagar đi vào là một nàng hầu. Rồi đi ra là một người mẹ. Và các vấn đề bắt đầu.

Hagar kiêu căng. Sarai ganh tị. Abram choáng váng khó xử. Và Thượng Đế gọi đứa bé trai đó là một “con lừa hoang” – một tên thích hợp cho một người sanh ra từ bướng bỉnh và định trước đường lối cho nó khởi sự đi vào lịch sử. Đây không là một gia đình ấm cúng mà Sarai chờ đợi. Và đây cũng không là đề tài mà Abram và Sarai thường nêu lên trong bữa ăn chiều.

Cuối cùng, mười bốn năm sau, khi Abram tiến được một thế kỷ tuổi, và Sarai chín mươi... khi Abram đã hết nghe lời cố vấn của Sarai, và Sarai đã ngừng cố vấn... khi những tấm giấy hoa dán trên tường phòng nuôi trẻ đã phai màu, và đồ đạc dành cho ấu nhi đã lỗi thời nhiều năm... khi đề tài về đứa con đã hứa, đem lại những tiếng thở dài, những giọt lệ, và những tầm nhìn xa xôi vào một khung trời im lặng... Thượng Đế đến thăm họ và bảo họ nên chọn một tên cho đứa con của họ sắp chào đời.

Abram và Sarai cùng một phản ứng: cười vang. Họ cười một phần vì quá tốt để xảy ra, một phần vì có thể. Họ cười vì họ đã không còn hy vọng, và hy vọng trở lại là điều buồn cười trước khi thành sự thật. Họ cười vì hết thảy đều rồ dại. Abram nhìn qua Sarai – răng sún và đang ngáy trên chiếc ghế lắc của Bà, đầu ngã về sau và mồm há hốc, chín mùi, nhăn nhúm như trái mận khô. Còn Ông thì suy sụp. Ông cố gắng, nhưng không thể. Ông luôn luôn là người ngây ngô cho mọi câu chuyện tiếu lâm.

Sarai thì hóm hỉnh. Khi nghe tin nầy, Bà cười ngất trước khi Bà có thể nén lòng. Bà lẩm bẩm điều gì về Ông, phải cần nhiều hơn điều Ông đã có, rồi Bà lại cười. 

Họ cười về điều Bạn làm, trong khi có một người nói rằng mình có thể làm điều bất khả. Họ cười đôi chút về Thượng Đế, và họ cười rất nhiều với Thượng Đế – bởi Thượng Đế cũng đang cười. Sau đó, với nụ cười còn nở rạng thiên nhan, Ngài bận rộn làm điều tốt nhất của Ngài – điều khó thể tin. Ngài thay đổi một vài điều – khởi đầu bằng tên của họ. Abram, cha của một người, bây giờ sẽ là Abraham, cha của một số đông. Sarai, một người bất khả sanh, bây giờ sẽ là Sarah, một bà mẹ. Nhưng tên của họ không là điều duy nhất Thượng Đế thay đổi. Ngài thay đổi tâm trí họ. Ngày thay đổi đức tin của họ. Ngài thay đổi con số giảm trừ thuế của họ. Ngài thay đổi phương cách họ định nghĩa danh từ “bất khả.” 

Nhưng, hơn tất cả, Ngài thay đổi tư thái của Sarah về sự tin cậy nơi Thượng Đế. Nếu Bà được nghe lời phán của Chúa Jesus về sự nghèo khổ tâm linh, thì Bà có thể nói lên lời chứng: “Ngài nói đúng. Tôi làm nhiều điều theo đường lối của tôi, tôi bị nhức đầu. Tôi để Thượng Đế lo liệu, thì tôi được một con trai. Bạn thử tưởng tượng điều đó. Tôi chỉ biết một điều, tôi là người nữ đầu tiên trong thành phố trả tiền bác sĩ nhi khoa bằng chi phiếu trợ cấp của Sở An Sinh cho người già.” 

Hai ngàn năm sau, có một lời chứng khác: “Điều cuối cùng tôi muốn làm là lưới cá. Nhưng đó chính là điều Chúa Jesus muốn làm. Tôi đã thả lưới trọn đêm. Tay tôi nhức nhối, Mắt tôi nóng bỏng. Cổ tôi đau buốt. Tôi chỉ muốn một điều là về nhà và để vợ tôi xoa bóp cho tan những gút mắt trên lưng. “Thật là một đêm dài. Không biết đã bao lần chúng tôi vung lưới vào đêm đen và nghe lưới chạm trên mặt biển. Không biết đã bao lần chúng tôi kềm giữ đầu dây thừng trong khi mãng lưới chìm trong nước. Suốt đêm chúng tôi chờ đợi một đụng chạm, một lôi đi, một giật ngược, báo cho chúng tôi biết để kéo lên một mẻ cá lớn... nhưng điều đó không đến bao giờ. Đến rạng đông, tôi sẵn sàng về nhà.

“Vừa khi tôi sắp rời bãi, tôi để ý một đám đông tíên về phía tôi. Họ đi theo một người cao ráo, bách bộ trong dáng đi thong dong, thư thả. Ngài thấy tôi và gọi tên tôi. Tôi gọi lại: ‘Chào Thầy Jesus!’ Dù Ngài cách xa khoảng 100 thước, tôi có thể thấy nụ cười nở rạng rỡ của Ngài. ‘Đông quá, phải không?’ Ngài reo lên, hướng về đám người phía sau. Tôi gật đầu và ngồi xuống chờ xem. “Ngài dừng lại cạnh mé nước và khởi sự nói. Dù tôi không thể nghe nhiều, tôi có thể thấy rất nhiều, tôi có thể thấy càng lúc càng đông người đến. Trong chen lấn và xô đẩy, một điều lạ, Chúa Jesus không bị nhận chìm trong nước. Nước ngập đến đầu gối khi Ngài nhìn tôi.
 
“Tôi không cần suy nghĩ hai lần. Ngài trèo lên thuyền của tôi, rồi John và tôi theo sau. Chúng tôi đẩy thuyền ra xa một chút. Tôi dựa lưng vào mũi thuyền, và Chúa Jesus bắt đầu giảng dạy. “Trông như nửa xứ Israel đang ở trên bãi. Những người nam rời sở làm, những người nữ ngưng việc nhà. Tôi cũng nhận ra một số tu sĩ. Sao tất cả đều lắng nghe! Ít thấy họ di động, tuy nhiên mắt họ lung linh như thấy được điều gì khiến họ như vậy. “Khi Chúa Jesus chấm dứt, Ngài quay sang tôi. Tôi đứng lên và sắp kéo neo, Ngài bèn nói: ‘Peter, hãy chèo ra chỗ sâu. Chúng ta sẽ lưới cá.’

“Tôi càu nhàu. Tôi nhìn John. Chúng tôi cùng một ý nghĩ. Nếu Ngài muốn dùng chiếc thuyền để làm tòa giảng thì được. Nhưng dùng nó để lưới cá – đó là nghề nghiệp của chúng tôi. Tôi sắp nói với người thợ mộc giảng đạo nầy:

‘Thầy chuyên giảng đạo, còn tôi chuyên lưới cá.’ Nhưng tôi lễ độ hơn: ‘Chúng tôi đã làm việc suốt đêm. Chúng tôi không bắt được con nào.’

“Ngài vừa nhìn tôi. Tôi nhìn John. John chờ dấu chỉ của tôi. “Tôi ước ao có thể nói rằng tôi làm việc đó vì tình yêu. Tôi ước ao có thể nói rằng tôi làm việc đó từ lòng tận hiến. Nhưng tôi không thể. Điều tôi có thể nói là có một thời để chất vấn và một thời để lắng nghe. Vậy, càu nhàu bao nhiêu thì nên cầu nguyện bấy nhiêu; chúng tôi đẩy thuyền ra khơi. “Với mỗi nhịp chèo, tôi lầm bầm. Với mỗi lần kéo mái, tôi cau có. ‘Không được. Không được. Không thể nào. Tôi có thể không biết nhiều, nhưng tôi biết lưới cá. Và những gì chúng tôi sẽ mang về chỉ là những cuộn lưới ướt. 

“Tiếng náo động trên bờ xa dần, và chẳng bao lâu chỉ còn âm thanh sóng vỗ mạn thuyền. Rốt cuộc chúng tôi thả neo. Tôi nâng cuộn lưới nặng đến ngang thắt lưng, và sắp ném xuống biển. Đó là lúc tôi bắt được cái nhìn thoáng của Chúa Jesus từ khóe mắt tôi. Nét biểu lộ của Ngài khiến tôi ngừng tác động.

“Ngài nghiêng người qua ngoài cạnh thuyền, nhìn xuống nước nơi tôi sắp ném lưới. Và, hãy nghe đây, Ngài nở một nụ cười. Một nụ cười như trẻ con, đẩy gò má lên cao và khiến cho vòng mắt thành bán nguyệt – kiểu nụ cười mà Bạn thấy khi một đứa bé tặng một món quà cho một đứa bạn và chờ xem lúc nó mở ra. “Ngài để ý thấy tôi nhìn Ngài, và Ngài cố dấu nụ cười, nhưng nụ cười vẫn còn. Nụ cười đó đẩy hai khóe miệng của Ngài lên cho tới khi chớp hiện những chiếc răng. Ngài đã ban cho tôi một món quà, và Ngài khó thể nén lòng chờ khi tôi mở nó ra. “‘Chao ôi, Ngài có ở trong một thất vọng nào chăng,’ tôi tự nghĩ trong khi tôi ném lưới. Lưới bay cao, tự bung ra trên bầu trời xanh, lững lờ đáp xuống tới khi chạm mặt nước, rồi chìm mất. Tôi quấn dây thừng một vòng quanh bàn tay tôi, rồi tựa lưng ngồi chờ thời gian dài.

“Nhưng không cần chờ lâu. Chiếc dây thừng lỏng lẻo bị giật thẳng và suýt kéo tôi ra khỏi thuyền. Tôi chống hai chân vào cạnh thuyền và kêu giúp. John và Chúa Jesus phóng tới bên cạnh tôi. “Chúng tôi kéo lưới lên kịp trước khi lưới bắt đầu rách. Tôi chưa hề thấy một mẻ lưới như vậy. Giống như thả rơi một bao đá vào trong thuyền. Thuyền chúng tôi sắp ngập nước. John phải kêu gào thuyền khác đến giúp chúng tôi.

“Một quang cảnh thật kỳ lạ: bốn ngư phủ trên hai chiếc thuyền, đầy cá đến đầu gối, và một người thợ mộc ngồi trên mũi thuyền ngắm nhìn hiện trường huyên náo. “Đó là lúc tôi nhận thức được Ngài là ai. Và đó là lúc tôi nhận thức được tôi là ai: Tôi là người đã nói với Thượng Đế những điều Ngài không thể làm!

“‘Thưa Chúa, hãy lánh xa tôi. Tôi là một người tội lỗi.’ Không còn lời nào khác tôi có thể nói. “Tôi không biết Ngài thấy gì trong tôi, nhưng Ngài không bỏ đi. Có thể Ngài nghĩ rằng nếu tôi để Ngài dạy tôi phương cách lưới cá, thì tôi cũng để Ngài dạy tôi phương cách phải sống. 

“Đó là một quang cảnh tôi sẽ thấy nhiều lần trong vài năm tới - trong các nghĩa trang với những xác chết, trên các sườn đồi với những người đói, trong bão tố với những kẻ sợ hãi, bên vệ đường với những người bệnh. Các nhân vật sẽ thay đổi, nhưng chủ đề thì không. Khi chúng ta nói: ‘Không lối nào,’ thì Ngài nói: ‘Con đường của Ta.’ Rồi những kẻ nghi ngờ sẽ bò lên để vớt vát ân phước. Và Đấng ban cho những điều ấy sẽ vui thỏa với sự bất ngờ

“Quyền lực của Ta bày tỏ mạnh nhất trong những người yếu đuối.” Thượng Đế phán những lời nầy. Sứ đồ Paul ghi chép lại. Thượng Đế phán rằng Ngài tìm kiếm những chiếc bình trống không hơn là những bắp thịt mạnh mẽ. Sứ đồ Paul minh chứng điều đó. Trước khi gặp Chúa, Paul từng là anh hùng giữa vòng người Pharisees. Bạn có thể gọi Ông là Wyatt Earp (cao bồi lừng danh) của họ. 

Ông giữ gìn luật pháp và trật tự – hoặc, nói đúng hơn, tôn trọng Kinh Luật và ban hành giáo lệnh. Các bà mẹ hiền Do thái giáo tôn cao Ông như một tấm gương về một đứa con trai Do thái giáo tốt lành. Ông được ngồi ghế danh dự trong buổi tiếp tân ngày Thứ Tư tại Câu lạc bộ Sư tử ở Jerusalem. Trên bàn của Ông có cái kẹp giấy “Nhân vật nổi tiếng trong Phái Judah,” và Ông được chọn là “Người gần như Thành Công nhất” trong khóa tốt nghiệp của Ông. Ông nhanh chóng tự tạo mình như người thừa kế cho Gamaliel, sư phụ của Ông.
 
Nếu có dịp nào như một vận may tôn giáo, thì dịp đó thuộc về Paul. Ông là một tỉ phú tâm linh, sanh ra với một chân trên thiên đàng, và Ông biết điều đó. Dòng máu quí tộc và đôi mắt hoang dại, con người trẻ nhiệt tình, liều lĩnh cho sự gìn giữ một vương quốc trong sạch – điều nầy có nghĩa là loại trừ các tín đồ Cứu thế giáo.

Dù vậy, tất cả những việc nầy phải dừng lại bên vệ đường của một thượng lộ. Trang bị với những trát lệnh, những còng tay, và một đám lính, Paul đang trên đường thực hiện một cuộc truyền giáo cá nhân nhỏ tại Damascus. Ấy là lúc một người nào đó bật sáng vận động trường, và Paul nghe được tiếng nói. Khi Ông biết người đã phát ra tiếng nói là ai, thì quai hàm Ông rơi xuống và thân thể Ông ngã theo. Ông tự nghĩ đến điều tai hại nhất. Ông biết rằng thế là hết. Ông cảm thấy vòng dây thòng lọng quanh cổ Ông. Ông ngửi được mùi hoa trong chiếc xe tang. Ông khẩn cầu được chết nhanh chóng và không đau đớn. Nhưng điều xảy đến cho Ông chỉ là sự yên lặng và biến cố đầu tiên của những bất ngờ trong suốt đời Ông.

Cuối cùng Ông bối rối và ngơ ngác trong một phòng trọ. Thượng Đế đặt Ông vào đó mấy ngày với những cái vảy trong mắt Ông, dày đến độ hướng duy nhất Ông có thể thấy được là bên trong chính Ông. Và Ông không thích điều Ông đã thấy. Ông thấy chính con người thật của Ông – dùng lời lẽ theo ý riêng mình, tai hại nhất trong các tội nhân. Một môn đồ luật pháp quá khích. Một kẻ quấy phá. Một tên khoác lác, kiêu căng cho rằng đã thông thạo quy tắc của Thượng Đế. Một người ban phát công lý, lượng giá cứu độ bằng một dĩa cân.
 
Đó là khi Ananias tìm thấy Ông. Nhìn Ông không mấy khả quan – bơ phờ và loạng choạng sau ba ngày khủng hoảng. Nhìn Bà Sarai cũng không khả quan lắm, Peter cũng thế. Nhưng điều mà ba người cùng có như nhau, nói lên nhiều hơn một quyển thần học thống giáo. Bởi khi ho đầu hàng, thì Thượng Đế bước vào, và kết quả là được lên những toa xe thăng trầm đi vào vương quốc.

Paul đi một bước trước chàng trai giàu quyền thế. Ông biết tốt hơn không nên chống đối Thượng Đế. Ông không viện cớ biện minh, Ông chỉ cầu xin sự thương xót. Cô đơn trong phòng với những tội của Ông, trong lương tâm và bàn tay dấy máu, Ông cầu xin được tẩy sạch.

Những lời khuyên bảo của Ananias đáng cho chúng ta đọc: “Anh còn chờ đợi gì? Hãy đứng dậy, chịu phép trầm mình để được thanh sạch tội lỗi, và kêu cầu Danh Ngài.”

Ông không chờ nói đến hai lần. Con người luật pháp Saul bị chôn đi, và con người giải phóng Paul được sanh ra. Sau đó, Ông không còn giống như trước. Và thế gian cũng thế. Những bài giảng quấy động, các môn đồ tận hiến, và sáu ngàn dậm đường mòn. Nếu đôi dép của Ông không kéo lết, thì ngòi bút của Ông đã viết ra. Nếu Ông không giải thích kỳ bí của ân điển, thì Ông đã nói lên thần đạo xác định tiến trình văn minh Tây phương.

Tất cả những lời của Ông có thể tóm gọn trong một câu: “Chúng tôi truyền rao về Đấng Christ chịu thập hình.” Đó không phải vì Ông thiếu những bài giảng tóm lược, mà chỉ vì Ông không thể dốc hết trong lần đầu.

Tính cách vô lý của toàn thể sự việc khiến Ông tiến tới. Có thể Chúa Jesus đã phải dứt điểm Ông trên thôn lộ. Ngài đã phải bỏ Ông cho những con diều hâu. Ngài đã phải ném Ông vào hỏa ngục. Nhưng Ngài không làm. Ngài sai Ông đến với những người lạc lối.

Chính Paul gọi điều đó là điên khùng. Ông mô tả nó bằng những chữ “hòn đá vấp ngã” và “rồ dại,” nhưng cuối cùng Ông chọn gọi đó là “ân điển.” Và Ông biện bạch cho lòng trung kiên bất diệt của Ông, khi nói: “Tình yêu của Đấng Christ khiến tôi không thể chọn diều nào khác.”

Paul chưa học một khóa nào về truyền giáo. Ông chưa từng dự một buổi họp ủy ban. Ông không hề đọc sách hội thánh tăng trưởng. Ông đơn sơ được cảm ứng bởi Đức Thánh Linh và say sưa trong tình yêu đã khiến sự bất khả trở thành khả năng: cứu độ. Sứ điệp thật hào hứng: Cho một người thấy những thất bại của mình nếu không có Chúa Jesus, và kết quả tìm được trong vũng sình bên vệ đường. Cho một người thấy một tôn giáo không nhắc đến sự ô uế của mình, và kết quả là niềm kiêu hãnh trong bộ y phục ba mảnh thời trang. Nhưng, hãy nhận lấy cả hai trong cùng một trái tim – mang tội lỗi đến gặp Đấng Cứu Độ và Đấng Cứu Độ đến gặp tội lỗi – và kết quả đơn sơ có thể là thêm một người Pharisee trở thành một nhà truyền giáo châm lửa bùng dậy cả thế giới.

Bốn con người: Chàng trai giàu quyền thế, Sarah, Peter, và Paul. Một sợi chỉ lạ lùng cột họ lại với nhau – tên của họ. Ba người sau cùng đều được đổi tên – Sarai thành Sarah, Simon thành Peter, Saul thành Paul. Nhưng người đầu tiên, chàng trai trẻ, chưa bao giờ được nhắc đến bằng tên. Có lẻ đó là sự giãi bày rõ ràng nhất, điểm đầu tiên trong tám Đại Phước (Mat. 5:3): “Phước cho những kẻ nghèo khổ tâm linh, vì Vương quốc Thiên đàng thuộc về họ.” Một người đã tạo một danh cho chính mình thì sẽ không có tên. Song những người kêu cầu Danh Chúa Jesus – và chỉ Danh Ngài thôi – thì sẽ được những danh mới và, hơn nữa, sự sống mới.