Hôm nay, ngày Chúa Nhật, trước 9 giờ sáng đã có nhiều người, phần lớn ở tuổi cao niên, tới phòng thông công Hội thánh, uống trà, cà phê, ăn bánh ngọt và trò chuyện. Bà Liêm cũng tới sớm để làm quen các bà. Mục sư Quân, em ông Tùng, quản nhiệm Hội thánh từ nhiều năm nay.
Nghĩa đưa mẹ đến dự, trong khi đó Tiến đến cùng chị và 2 em trai. Tất cả được hoan nghênh trong giờ đầu. Mục sư giảng luận đề tài “Người con trai hoang đàng” trong sách Phúc Âm Lu-ca chương 15 (11-32).
Chúa kể rằng có một ông cha có hai đứa con trai. Người con lớn siêng năng làm việc; đứa em thì ngược lại, lười biếng, ham chơi. Một hôm, người em đến nói với cha: “Cha ơi, xin chia cho con phần gia tài của con. Con muốn có số tiền đó bây giờ.”
Người cha chưa chết mà con đã đòi chia gia tài nên ông buồn lắm, không muốn chia. Nhưng vì người con cứ năn nỉ ỉ ôi, nên cuối cùng người cha lấy tiền đem chia cho cả hai con. Người con nhỏ được nắm tiền trong tay nên vui vẻ lắm, bèn cầm tiền đó ra khỏi nhà, đi đến một nơi xa lạ. Ông cha tìm cách can ngăn nhưng không được nên ông đành để cho con đi. Người con sung sướng mang cả phần gia tài đi ra tỉnh thành. Ở đó, chàng tự do ăn chơi. Chàng kết bạn với những người xấu, những người bạn này lôi kéo chàng vào những chỗ trác táng, và chàng tiêu xài tiền bạc cách phung phí.
Không biết có bao giờ chàng ta nghĩ đến cha hay không, mà cứ tiếp tục vùi đầu vào những buổi tiệc tùng, ca hát, rượu chè, cờ bạc... Chẳng bao lâu tiền của hết sạch. Những người bạn thân bắt đầu làm ngơ và dần dần xa lánh. Có lúc chàng ta không còn tiền để mua thức ăn. Lúc ấy trong vùng đó lại gặp nạn đói lớn. Không một bạn nào giúp đỡ. Hoàn cảnh lúc đó thật bi đát, chàng ta đành phải xin việc chăn heo để có miếng ăn qua ngày.
Đối với người Do Thái, heo là con vật ô uế, chăn heo là một công việc thấp kém, hèn hạ, nhưng chàng không có nghề gì khác nên đành phải nhận công việc này để khỏi chết đói. Đã vậy, vì ăn không đủ no, chàng muốn lấy vỏ đậu của heo ăn để ăn cho đỡ đói mà chủ cũng không cho. Nhìn lại thân mình, đói rách, hôi hám, tủi nhục, chán nản, thất vọng. Chàng chợt nghĩ đến gia đình! Nghĩ đến hình ảnh người cha thân yêu, gia đình no đủ êm ấm, chàng thấy mình quá dại dột.
Chàng thầm nghĩ: Trong nhà cha mình những người giúp việc còn có thức ăn dư dật mà mình ở đây phải chết đói. Thôi, mình hãy về xin lỗi cha, xin làm người giúp việc trong nhà cha cũng còn sung sướng hơn. Nghĩ thế nên chàng thanh niên liền xin nghỉ việc và lên đường trở về nhà.
Từ khi người con bỏ nhà đi, ông cha rất là nhớ thương và lo lắng. Ngày ngày ông ra cửa đứng trông đợi con. Ông mong có một ngày con ông sẽ ăn năn trở về. Ngày hôm đó, ông cũng ra cửa trông ngóng như mọi ngày, bỗng thấy đàng xa có một người đi về phía nhà ông. Khi người đó đi đến gần, ông giật mình kinh ngạc, rồi mừng rỡ vì đó chính là đứa con trai yêu quý của ông. Ông lật đật chạy ra đường đón con. Ông vui mừng ôm đứa con yêu dấu vào lòng. Gặp lại cha, chàng thanh niên vừa xấu hổ vừa hối hận nên nói: “Thưa cha, con thật có tội với trời và với cha, không đáng được gọi là con của cha nữa.” Nhưng người cha không để ý lời con nói. Được gặp lại đứa con yêu dấu, ông mừng quá, vội vàng dẫn con vào nhà, gọi người giúp việc bảo: “Hãy mau lấy áo tốt nhất mặc cho con ta, đeo nhẫn vào tay, mang giày vào chân. Hãy bắt bò con mập làm thịt. Chúng ta hãy ăn mừng, vì con của ta đây đã chết mà bây giờ lại sống, đã mất mà bây giờ lại gặp.” Thế là mọi người trong gia đình vui vẻ chuẩn bị một bữa tiệc để ăn mừng người con đi hoang đã trở về.
Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên chúng ta. Ngài là Người Cha Nhân Từ, lúc nào cũng yêu thương, quan tâm đến chúng ta. Cha nhân từ luôn đầy tình yêu thương, tha thứ miễn là chúng ta là con cái biết hối lỗi trở về nhà Cha.
Bài học hôm nay Mục sư Quân muốn đặt tên là “Lãng Tử Hồi Đầu” nghĩa là đứa con hoang đàng quay trở về nhà Cha. Tựa này nhắc cho phần quan trọng là chúng ta hối hận việc sai trái lúc trước, quyết tâm dứt bỏ thì mới được ơn thương xót là ân sủng mà Đức Chúa Trời ban cho. Sự hối hận của người biết lỗi rất quý báu, ngay vàng cũng không đổi được, như ý câu thơ “Lãng tử hồi đầu kim bất hoán” 浪子回頭金不換.
Đây là ẩn dụ được biết đến nhiều nhất của Chúa Giê-su, chỉ được chép lại trong Phúc âm Lu-ca, làm nổi bật thông điệp: Tình yêu và ân điển của Thiên Chúa được ban cho vô điều kiện. Sự tha thứ dành cho người con không dựa trên việc làm hay trên công đức, mà dựa trên tình thương yêu. Chỉ cần người con thống hối trở về, là tấm lòng bao dung của người cha mở ra đón nhận.
Cuối bài giảng, Mục sư Quân hỏi có ai cảm động tình yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa, cùng nhận biết mình đã xa nhà Chúa từ lâu, nay muốn trở về nhà Cha thì ông sẽ cầu nguyện cho. Nghĩa và Tiến bước lên xin cầu nguyện. Mục sư Quân nhìn vào tên của Nghĩa, có hứng thú chiết tự: Nghĩa義 gồm chữ Dương 羊là con chiên ghép với chữ Ngã 我là tôi. Chữ này có ý nghĩa rất đặc biệt, vì con chiên tượng trưng cho Chúa Giê-su đổ huyết, hi sinh mạng sống để tôi cũng như bất cứ ai nhìn và nhận ra Chúa Giê-su chết vì tội lỗi mình thì sẽ được xưng công nghĩa, nghĩa là sẽ hưởng được cơ nghiệp đời đời gồm 3 phần: tội lỗi được tha, linh hồn được cứu rỗi và hưởng được sự sống đời đời.
Sau giờ, Mục sư sắp xếp cho Nghĩa và Tiến chương trình học lớp Báp-têm. Bước ra khỏi phòng nhóm, mọi người tới chúc mừng 2 con cái Chúa mới. Nghĩa và Tiến cảm thấy một niềm vui chất ngất trong lòng vì đã quyết định được một điều quan trọng của cuộc đời.
Châu Sa ghi.