Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Monday, November 26, 2012

Từ Ma Thuật Đến Christ --5


Hạt kim cương chưa mài giũa

“Một chiến lợi phẩm của ân điển, một hạt kim cương chưa mài giũa”. Đây là các danh từ mà các tín hữu đã đặt cho tôi. bây giờ tôi rời làng Bê-tha-ni để trở lại Thành phố Bơ-rít-tôn (Bristol) và tôi bắt đầu cuộc sống mới. Trong Mac 16:1, 5 chép “Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin lành cho mọi người”. Mệnh lệnh “Hãy đi”, trong đó gồm có cả tôi nữa. Tôi biết như vậy, Chúa Giê-xu đã kêu gọi tôi, vâng, Ngài đã chọn tôi để làm công việc của Ngài trên thế gian này. và bây giờ tôi đã đi vào con đường hẹp để phục vụ Chúa tôi... Thật khó cho tôi vì không được huấn luyện ở một trường thần học nào, nhưng một điều tôi có thể làm được là làm chứng những gì Ngài đã làm cho tôi. Chúa cho tôi biết xúc động về những linh hồn hư mất, đặc biệt là các gái mãi dâm, các người nghiện. “Thưa Cha, con đây, xin Chúa hãy sai con!”, đó là tiếng đáp lại của tôi. -“Hãy đi theo Ngài”.


Tuy nhiên, các Cơ-đốc nhân lại chính là hòn đá ngăn trở tôi. những người này rất khó chấp nhận tôi, họ đã quen mắt với con người tôi ngày trước vì tôi ăn mặc khác, nói năng khác, hành động khác... Thật vậy, tôi đã được thay đổi thành người mới trong Christ. Dù vậy, có rất ít người cho rằng tôi là một Cơ-đốc nhân thật. Tôi không thể hiểu điều đó. Rất nhiều lần tôi thật đau đớn vì cớ sự không tin của họ, tôi đã âm thầm đổ không biết bao nhiêu nước mắt, không phải do những gì họ nói hay hành động nhưng bởi những cái nhìn nghi ngờ của họ. Sợ tôi, họ xua đuổi tôi. Thánh Phao-lô cũng có đồng một kinh nghiệm như thế. Quá khứ của ông còn rành rành trong đầu óc của họ để họ có thể chấp nhận được ông. Tôi thông cảm được thánh Phao-lô đã nghĩ gì. tuy nhiên, đến một lúc quá khứ của Phao-lô cũng mờ dần trong trí họ, thì họ biết ông là một sứ đồ chân thật, một con người đã được thay đổi. Và rồi cũng đến lúc các tín hữu thấy tôi là người tin Chúa Giê-xu thật và họ chấp nhận tôi. họ hiểu rằng tôi đã được thay đổi, tôi đã thoát khỏi xiềng xích của ma quỷ. Thế rồi họ gọi tôi là một chiến lợi phẩm của ân điển hay hạt kim cương chưa mài giũa. Vâng, hạt kim cương này đang còn gồ ghề lắm, cần phải mài giũa mới trở nên hữu dụng được.


Tôi trở lại những đường phố quen thuộc nhưng với một mục đích khác. Còn nơi nào tốt hơn để đem Tin lành cho những cô gái ngoài đường phố ấy? Các bạn cũ của tôi tưởng tôi khùng, họ nói “Nè, con Đai-ơ-na (Diana) tội nghiệp, nó đi giảng đạo giả tưởng!”. Tôi không để ý những gì họ phê phán, tôi cứ việc nói cho họ biết những gì Giê-xu đã làm cho tôi và Ngài cũng sẽ làm cho họ nếu họ chịu tiếp nhận Ngài.
-“Nè, Đai-ơ-na (Diana), tụi tao cho mầy ba tháng đó rồi mầy sẽ trở lại nghề với tụi tao thôi!”.


-“Con Đai-ơ-na (Diana) cũ đã chết rồi, các bạn chẳng còn thấy mặt nó nữa đâu!”, tôi trả lời họ. Ôi! Tôi yêu những con người như thế này làm sao! Rất nhiều lần tôi đứng bên vệ đường, tay ôm choàng vai họ, khóc cho họ và cuối cùng họ đã công nhận rằng tôi có một cái gì đó mà họ không có được, đó là hạnh phúc và sự bình an thật... Họ nói “Trông mầy khỏe và tươi hẳn ra”. Đúng vậy, tôi đang vui nhưng cũng đang khóc cho họ. Họ thường bảo “Tụi taop chẳng bao giờ có thể thay đổi được đâu, Đai-ơ-na (Diana)”. Tôi khóc sướt mướt vì tôi đã chẳng từng nói như vậy trước kia hay sao? Tôi thường bảo họ “Nếu bạn để Giê-xu ngự vào đời sống bạn thì Ngài sẽ làm điều đó cho bạn”. Họ thường trả lời vắn tắt với tôi “Ừ, có lẽ tụi tao sẽ nghĩ về điều đó khi nào tụi tao già kìa, chứ bây giờ thì không”, rồi vội vã bước đi. tôi tiếp tục công việc như thế trong mấy năm tiếp theo vì nếu có người nào đó có thể nghĩ gì về một cô gái mãi dâm thì còn ai rõ hơn tôi nữa? Tôi thường ra phố mỗi đêm và ở đó rất khuya để có thể gặp họ, tôi biết rõ họ ở đâu đặng tìm đến. Tôi đã nghe một cô gái nói “Xem kìa, Đai-ơ-na (Diana) đến với Giê-xu của nó đấy”.


Có lần Giê-xu đã thì thầm bên tai tôi rằng “Con sẽ đi đến những đường phố với một đôi giày khác biệt”, giọng Ngài rất trong sáng và ngọt ngào. Lúc đó tôi không biết Chúa ngụ ý gì khi Ngài phán với tôi câu đó, bây giờ thì tôi hiểu Ngài muốn nói gì rồi. Tôi đang đi trên những đường phố với đôi giày mới, đó là giày Tin lành. Bước chân tôi được bảo vệ bình an.


Một lần kia, trong lúc tôi vẫn đi làm chứng như thường lệ, lần này tại một câu lạc bộ, nơi mà trước kia tôi vẫn thường lui tới vì nghề nghiệp, tôi đang nói chuyện với một người đàn ông về tình yêu của Chúa Giê-xu. Hầu hết những người trong quán rượu này đều biết mặt tôi và họ đều nhận thấy sự khác biệt của tôi bây giờ. Người đàn ông nói với tôi “Nè, Đai-ơ-na (Diana), đừng để ý đến những điều đó nữa, hãy uống một cốc đi, rồi cô sẽ quên mọi chuyện trong chốc lát mà”. Tôi trả lời “Không, tôi không thể nào quên được Giê-xu của tôi dù chỉ một giây”. Đôi lúc tôi ngồi yên lặng theo sự dẫn dắt của Thánh Linh, đôi khi tôi hát “Biến đổi hết mọi điều, tâm hồn nay được trắng trong, khi tôi dâng lòng mình tiếp Giê-xu... ”. Mọi người chăm chú nghe. Thật là tuyệt diệu, hồi hộp, khi hát ca ngợi Giê-xu trong một quán rượu. Ra khỏi quán rượu, tôi dựa vào tường, lòng tràn ngập vui mừng, mắt tôi ngấn lệ, đăm đăm nhìn về phía ánh đèn màu lờ mờ đó và ước mơ có một linh hồn bắt được ánh sáng của Giê-xu. Có một hôm, tôi gặp một người đàn bà đứng tuổi ngồi trong góc tại một quán rượu khác, bà thường ngồi một mình như vậy. Trong bà cô đơn và buồn, tôi tặng bà một cuốn sách nhỏ rồi ngồi xuống trò chuyện với bà. Nước mắt bà bắt đầu lăn trên gò má nhăn nheo. Bà thều thào: “Tôi vào đây đã gần mười năm rồi nhưng không người nào nói chuyện với tôi cả, không ai cả”. Tim tôi đập mạnh. Tôi nói “Chúa Giê-xu yêu bà, Ngài đã chết thay cho bà, không ai để ý đến bà, nhưng có Giê-xu, Ngài rất lo lắng cho bà”. Tôi tiếp “Bà cho phép tôi đưa bà về nhà được không?”. Bà mừng rỡ “Được, cô ở lại uống nước với tôi nhé!”. Tôi đưa bà về nhà ở gần đó, tên bà là Ve-ra (Vera), 63 tuổi. Sau chén trà nóng, tôi bắt đầu làm chứng cho bà về mọi điều Chúa Giê-xu đã làm cho tôi, bà rất cảm động. Mở Kinh thánh ra, tôi chỉ cho bà con đường đến sự cứu rỗi, bình an và yên nghỉ. Rồi hai chúng tôi cùng quỳ gối xuống, bà vui mừng mời Chúa Giê-xu ngự vào lòng. Thật là tuyệt diệu không gì so sánh được!


Sau đó vài ngày tôi trở lại thăm bà, mặt bà rạng rỡ “Tôi sẽ không bao giờ trở lại quán rượu nữa, thay vào đó tôi tìm nguồn an ủi trong Kinh thánh. Bây giờ tôi đang sẵn sàng để gặp Chúa tôi”. Thật vậy, Ve-ra (Vera) chẳng bao giờ trở lại quán rượu nữa và bà đã thật sự gặp Cứu Chúa của bà một tuần lễ sau đó. Các người hàng xóm nói lại rằng bà chết rất bình an, giống như ngủ vậy. Ve-ra (Vera) đã đi với Cứu Chúa của bà, một ngày kia tôi lại sẽ gặp bà.
Một buổi tối kia, tôi cũng đi trên con đường quen thuộc (đó là những con đường đầy tội lỗi), một người đàn ông dừng xe lại và muốn nói chuyện với tôi, ông là một khách quen của tôi ngày trước: “Chào cô Đai-ơ-na (Diana), cô vẫn bình an trong nghề đấy chứ?”. “Vâng, nhưng không phải trong công việc như ông tưởng đâu, tôi đang làm việc cho hoàng đế của tôi. đây là một truyền đạo đơn, xin ông hãy đọc về Vua Giê-xu của tôi”. Ông ta sửng sốt chạy lại phía xe của ông rồi mất hút. Mặc dầu đêm đó tôi còn gặp ông nhiều lần, nhưng ông chẳng nói với tôi lời nào nữa. Còn tôi, tôi cầu nguyện cho ông để ông có thể gặp được Chúa Giê-xu.


Một tối khác, tôi vào quán rượu để phát sách Tin lành. Tôi gặp một khách hàng cũ khác của tôi. tôi nói cho ông ấy biết thế nào Chúa Giê-xu đã thay đổi cuộc đời tôi. gương mặt ông đỏ lên, tay ông run đến nỗi không giữ được đôi kính trong tay ông, thình lình ông vụt chạy ra khỏi quán rượu, bỏ lại chai bia còn dở dang trên bàn. Thường tôi vào một quán rượu để phát sách, làm chứng xong tôi đến một quán rượu khác, vì vậy, tôi lại gặp người đàn ông lúc nãy, vừa thấy tôi, ông ta vội cút ra khỏi quán rượu đó, bỏ ly bia lại trên bàn... Ông ấy nói “Có phải cô theo dõi tôi không? Sao tôi ở đâu thì cũng có mặt cô ở đó?”. Tôi trả lời “Không phải tôi theo dõi ông mà là Chúa Giê-xu đó, Ngài muốn ông dâng lòng mình cho Ngài”. Nói rồi ông ta vội đi ra lần này ông ta lấn người khác, đạp đổ tung bàn. Lạ thật, tối đó ông ấy chẳng dùng được tí bia nào. Tôi cầu nguyện cho ông ta có được sự an nghỉ mà Giê-xu hứa ban cho kẻ nào tìm kiếm Ngài. Tôi cứ tiếp tục dạo trên đường, gặp những cô gái ăn sương, bảo cho họ biết về Chúa Giê-xu, Ngài cứu tất cả mọi người. Tôi thích nhất chữ mỗi người ở mọi nơi không trở ngại chi cả, dù bạn là ai. Sa-tan cũng theo tôi riết, chúng cố thuyết phục và dụ dỗ tôi: “Hãy lại và nhậu một chút, chỉ một ít thôi, ở đây không ai thấy đâu”. Tôi nhớ lại lời Kinh thánh chép “Hãy chống cự ma quỷ thì nó sẽ lánh xa anh em”. Tôi tuyên bố với Sa-tan trong danh Chúa Giê-xu: “Hãy lui ra khỏi ta” và rồi nó lìa khỏi tôi. sang ngày khác, Sa-tan lại tiếp tục mưu đồ của nó “Không ai tin mầy đâu, ngay cả những Cơ-đốc nhân. Mầy chỉ phí thì giờ vô ích, hãy ăn, hãy uống, vào quán rượu nghỉ một chút cho khỏe đi”. Trong danh Chúa Giê-xu tôi lại bảo Sa-tan hãy lui ra. xong, tôi gọi điện thoại cho Ba ở Bê-tha-ni. Ba biết được tôi đang bị cám dỗ và gặp rắc rối, Ba cầu nguyện cho tôi qua điện thoại, ông bảo Sa-tan phải lui ra khỏi tôi trong danh Chúa Giê-xu. Rồi Ba bảo tiếp “Con hãy trở về nhà liền và trong lúc đi ngang qua các cửa quán rượu, con hãy giơ tay ra và nắm lấy Chúa Giê-xu trong đức tin, Ngài chắc sẽ dẫn con về nhà bình yên”. Tôi nghe lời ba, trong lúc đi qua trước các quán rượu, Sa-tan lại cố thuyết phục tôi vào trong uống rượu thay vì đi làm chứng. Tôi giơ tay thẳng lên trời trong đức tin, miệng thì thầm “Lạy Chúa Giê-xu, xin nắm lấy tay con trong tay Ngài, xin giữ con khỏi mọi điều ác...” Lạ thay, tôi chẳng thấy còn thèm muốn chút nào trước sự quyến dụ của Sa-tan. Đây là một quang cảnh kỳ lạ cho khách đi đường, khi thấy một người đi bộ, tay giơ thẳng lên trời. Còn đối với tôi, kỳ hay không chẳng nghĩa lý gì, chỉ biết là Sa-tan một lần nữa thất bại và Giê-xu là Đấng chiến thắng. Tay Ngài đã dìu dắt tôi, giữ tôi khỏi mọi điều ác.


Sa-tan lại cố cám dỗ tôi bằng cách khác, nó không muốn tôi phục vụ Chúa Giê-xu. Các phù thủy đen viết thư cho tôi, dọa sẽ giết tôi nếu tôi không chịu để cho họ yên. Những lời độc ác của họ như sau “Mày sẽ chết, nếu mày còn phanh phui nghề của chúng tao”. Có vài bức thư viết bằng máu của họ.
Thoạt tiên, chúng làm tôi sợ, nhưng tôi sẽ làm gì bây giờ? Tôi sẽ im lặng để Sa-tan muốn làm gì thì làm sao? Tôi sẽ không nói cho người ta biết sự nguy hiểm của phù phép mà tôi đã từng bị mắc bẫy sao? Không, chẳng bao giờ! Tôi sẽ tiếp tục cảnh báo mọi người. Những bức thư đó chỉ cho thấy sự độc ác của Sa-tan mà thôi. Tôi tin lời Chúa, trong sách Ro 8:38-39, Kinh thánh chép: “Tôi biết chắc chắn không một điều nào có thể ngăn cách chúng ta với tình yêu thương của Thượng Đế. Dù cái chết hay cuộc sống, dù thiên sứ hay ác quỷ, dù tình hình hiện tại hay biến chuyển tương lai, dù quyền lực uy vũ, dù trời cao vực thẳm, dù bất cứ vật gì trong vũ trụ _cũng chẳng bao giờ phân cách nổi chúng ta với tình yêu thương của Thượng Đế đã thể hiện nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta ”. Tôi thêm vào “Dù phù thủy hay Sa-tan”. Không, không, không có điều gì có thể phân rẽ tôi khỏi Giê-xu và lẽ thật. Giê-xu của tôi mạnh hơn phù thủy và Sa-tan. Chính Giê-xu thay tôi đối phó với Sa-tan, không ai hại tôi được. Tay Ngài bảo vệ tôi từng giờ. Quý vị thấy đó, tôi đã run sợ lúc bắt đầu công việc của Ngài, nhưng Chúa đã dạy tôi phải tin cậy nơi Ngài bất chấp điều gì xảy đến cho tôi, dù lớn hoặc nhỏ. Giê-xu đang bảo vệ tôi vì Ngài đã giải phóng tôi, nên Ngài chẳng bao giờ lìa bỏ tôi. Làm sao tôi có thể làm thinh được trước tội lỗi và sự độc ác của phù phép được. Phải có người nào đó cảnh báo người ta chứ, nhưng ai là người thích hợp hơn tôi? Ngay khi bắt đầu công việc, Ngài đã chuẩn bị tôi cho những việc lớn hơn. Hằng ngày tôi cứ mạnh mẽ hơn trong đức tin và công việc của tôi cũng phát triển hơn. Công việc tiếp theo là tôi làm chứng trong các buổi họp của phụ nữ. Giọng nói của tôi quê mùa thường khiến thính giả cười, thỉnh thoảng, tôi nói như tiếng gà trống gáy. Nhưng không sao, điều này lại làm cho lời chứng của tôi thêm tự nhiên.


Từng chút một, từ chỗ thấp bé ít ỏi, con đường mở rộng cho tôi: Càng ngày người ta càng mời tôi đến nói chuyện ở các nhà thờ, nhà nguyện, trường học, câu-lạc-bộ, phòng trà... Thật hồi hộp khi làm chứng cho Chúa Giê-xu trước đám đông người. Càng sung sướng hơn nữa khi thấy rất nhiều đàn ông, đàn bà, cả trẻ lẫn già, muốn đầu phục Đấng Christ và dâng đời sống họ cho Ngài. Trong lúc càng mạnh mẽ hơn trong Chúa, tôi nhớ lại “Hạt kim cương chưa mài giũa”. Bây giờ tôi hiểu câu nói ấy có một ý nghĩa khác sâu xa hơn. Ay không phải là tôi hiểu gì nhiều về kim cương đâu, tôi chỉ hiểu đơn sơ rằng kim cương được tìm thấy trong những vùng đất đá nóng nhất, tối tăm nhất, và khi kim cương mới được tìm thấy thì chúng không chiếu sáng long lanh nhưng rất thô kệch, rất gồ ghề cho đến khi nào chúng ở trong tay người thợ kim hoàn, được mài giũa khéo léo, sau đó mới trở nên tuyệt hảo và kết quả cuối cùng là chúng trở nên món trang sức quý giá.


Tôi chẳng phải là hạt kim cương được lấy trong vùng đất tối tăm bẩn thỉu, được giao cho Bàn Tay Đại Năng mài giũa để trở nên quý giá trước mặt Ngài hay sao? Bây giờ tôi cũng đang được Bàn Tay Tuyệt Xảo ấy uốn nắn. Ngài đang làm thành công việc của Ngài trên hạt kim cương gồ ghề thô kệch này.


Một công cuộc truyền giáo sâu nhiệm hơn


Kinh thánh chép: “Ta để trước mặt ngươi một cái cửa mà không ai có thể đóng lại được”. Có rất nhiều cửa mở ra cho tôi để truyền giảng Tin lành và làm chứng thế nào Ngài đã giải thoát đời sống hư hoại của tôi. Thật vinh dự cho tôi khi được làm chứng trước đám đông, trong chiến dịch truyền giảng Tin lành của Tiến sĩ Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings). Buổi đầu tiên tôi làm chứng tại Rít (Reeds) với ca sĩ Giôn Gờ-ran (John Grant). Tôi run sợ nhưng Chúa Giê-xu đã giúp tôi và buổi truyền giảng đó rất được phước. Thật là kỳ diệu khi nhớ lại cũng một đêm Tháng Sáu năm 1964, khi tôi đã chuẩn bị dao để sẵn sàng đâm Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings), nếu lúc đó có ai bảo rằng sẽ có ngày tôi đứng bên cạnh Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) để làm chứng về việc Chúa giải cứu tôi, chắc chắn tôi đã cười nhạo vào mặt họ. Nhưng bây giờ sự thật là tôi đang đứng cùng với Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) trên bục giảng, nói cho thính giả biết rằng có một buổi tối tôi đã đầu phục Đấng Christ và dâng lòng tôi cho Chúa Giê-xu. Đó là lần đầu tiên khởi sự cho công cuộc truyền giảng của tôi, nhưng tôi chẳng bao giờ quên đêm đó. Khán giả không đông lắm. Trong lúc tôi nói thể nào con người của tôi đã để cho ma quỷ làm chủ thì mọi người đều trố mắt nhìn tôi, một con người có một quá khứ chồng chất biết bao tội lỗi. Quí độc giả thử tưởng tượng, tôi đã hồi hộp biết chừng nào khi đứng bên cạnh nữ ca sĩ Bét-ti Lu-miêu (Betty Lou-Mills) trong lúc nàng hát đi hát lại bản Thánh Ca yêu thương, ngọt dịu mà năm xưa đã cảm động lòng tôi! Nữ ca sĩ Lu-miêu (Lou-Mills) đã dâng giọng ca mình cho Chúa Giê-xu đi truyền giảng Tin Lành. Nàng rất dịu hiền, nàng đã gây được cảm tình nơi tôi và rất nhiều khán giả khác.

Trong lúc giảng Tin Lành ở nơi công cộng, tôi cũng không bỏ qua việc đến các đường phố lớn, nhỏ để truyền bá danh Giê-xu cho mọi người, là Đấng cất đi bao nhiêu nan đề trong đời sống. Tôi làm như vậy ở nhiều nơi, đặc biệt là tại Luân-đôn (London). Trở lại những con đường quen thuộc tại khu Xô-hô (Soho), lòng tôi đau như cắt bởi những linh hồn đang hư mất. Tôi cũng trở lại các phòng trà, quán rượu với nét mặt bình an, hy vọng, vui vẻ mà thế gian này chẳng bao giờ đem lại cho chúng ta được.


Có một lần tôi đi thăm khu vực phía đông Luân-đôn (London) gần nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. một buổi tối kia ở Bờ-rít-tân (Bristol), Chúa đã sai tôi một mệnh lệnh rất đặc biệt: “Đến nhà số 50... và tìm Ê-vơ-linh (Evelyn)”. Tôi biết giọng của Chúa tôi và sứ điệp của Ngài rất rõ ràng. Nhưng tôi chẳng bao giờ nghe nói tới đường... và cũng chẳng biết Ê-vơ-linh (Evelyn) là ai. Nhưng nếu Chúa đã bảo tôi đi thì tôi còn lo ngại gì các chi tiết khác? Tôi lên tàu hỏa, cầu nguyện suốt đường đi để Giê-xu dẫn dắt tôi biết nơi nào và tôi sẽ nói những gì khi tôi gặp Ê-vơ-linh (Evelyn). Không cần nói quý vị cũng biết rằng sống lâu năm ở Thành phố Luân-đôn (London)thì cũng không mấy người biết được nhiều đường để chỉ dẫn cho mình. Cuối cùng tôi liên lạc với vị mục sư sở tại và nói cho ông biết công việc của tôi. hai vị mục sư rất ngạc nhiên khi họ dẫn tôi đến đường..., con đường chẳng đẹp đẽ gì, vừa đầy ổ gà lại bẩn thỉu lắm. Ở cuối con đường là nhà số 50. Một người đàn bà mập phệ đang tựa mình trên khung cửa sổ nhớp nhúa, thân bà che gần khuất cái cửa, tay bà đang cầm một cốc rượu, môi phì phà thuốc lá. Sau khi thầm nguyện trong lòng, tôi bắt đầu nói chuyện với bà.


_“Chào bà ạ, tôi là Đo-rinh (Doreen). Tôi đã đi khá xa từ Bờ-rít-tôn (Bristol) tới đây để nói với bà một chuyện cần thiết”.
_“Ừ”, bà chỉ đáp lại có thế và cứ để mặc chúng tôi đứng ngoài đường. Tôi tiếp tục:
_“Vâng, Chúa Giê-xu có một sứ điệp đặc biệt cho bà”
_“Ừ”, bà đáp như chẳng nghe vừa rồi tôi nói gì cả. Tôi thêm:
_“Ồ, bà ơi, tôi nói thật đấy. Tôi chợt nhớ ra Chúa bảo tôi hãy tìm Ê-vơ-linh (Evelyn). Tôi nói là gì “Cảm ơn Chúa”, rồi hỏi bà:
_“Có ai tên Ê-vơ-linh (Evelyn) ở đây không ạ?”.
_“Vâng, đó là con gái tôi”, người đàn bà trở nên vui vẻ hẳn, “cô muốn nói chuyện với nó hả? Xin mời vô”.


Chúng tôi bước vào nhà, bên trong thật tồi tệ. Tường ván ẩm thấp, mục nát cả. “Đây là chỗ heo ở mới đúng”, người đàn bà nói. Tôi cũng ngầm đồng ý với bà như vậy. Bà tiếp “Đây cũng là chỗ của lũ chuột” và rồi tôi thấy một con chuột chạy ngang. Bà chỉ cho tôi một cái phòng bên trong, cũng chẳng khá gì hơn, nhưng trên bàn có một chai rượu đắt tiền nhất mà tôi từng thấy. Một cô gái khoảng mười tám tuổi đang nằm trên cái giường rách nát. Tôi nhẹ nhàng hỏi: “Có phải Ê-vơ-linh (Evelyn) đó không bà?”. “Không, đó là Giên (Jane), Ê-vơ-linh (Evelyn)đang ở trên gác”. Tôi từ từ giải thích cho bà biết tại sao tôi đến đây, rồi tôi nói một ít về đời sống tôi, thể nào Chúa Giê-xu đã cứu vớt tôi từ một cô gái mãi dâm và biến đổi tôi được như bây giờ. Nước mắt từ từ lăn trên đôi gò má của bà. Bà nói: “Tôi đã xử tệ với mấy đứa con tôi, tôi là một người nghiện, những con tôi là gái mãi dâm và Ê-vơ-linh (Evelyn) còn nghiện á phiện nữa”. Bây giờ hai vị mục sư và tôi cũng khóc. Chúng tôi thấy thế nào Sa-tan đã gài bẫy gia đình này.


Sau khi đã nói cho bà biết thế nào Chúa Giê-xu đã chịu chết và đã sống lại để bà có thể sống và đến nơi chân thập tự mà Giê-xu đã đổ huyết ra vì cớ tội lỗi của bà thì bà bằng lòng ăn năn tội và dâng đời sống mình cho Chúa Cứu Thế. Chính lúc đó, bà quì gối với chúng tôi, xin tiếp nhận Giê-xu làm Cứu và Chúa của bà. Giên (Jane) vẫn nằm đó, nàng rất vui khi nghe đầu đuôi câu chuyện nhưng chưa tiếp nhận Giê-xu. Rồi bà gọi đứa con gái tên Ê-vơ-linh (Evelyn) và cho nàng biết mọi việc vừa xảy ra tại đó. Bà hỏi: “Ê-vơ-linh (Evelyn) nè, con cũng mời Giê-xu ngự vào lòng con đi”. Thật là tuyệt diệu khi nghe một người vừa tiếp nhận Chúa làm chứng như vậy. Tuy nhiên, Ê-vơ-linh (Evelyn) đã không sẵn sàng và nàng lại trở lên gác. Lòng tôi như theo đuổi nàng... chúng tôi trao phó gia đình này trong tay Chúa và cho họ một cuốn Kinh thánh cũng với một ít truyền đạo đơn trước khi từ giả. Về sau, chúng tôi nghe nói Giên (Jane) bị đi tù. Vị mục sư đã kêu gọi nàng dâng lòng mình cho Chúa Giê-xu và nàng đã tiếp nhận Ngài khi còn ở trong tù. Riêng người Mẹ có viết thư cho chúng tôi biết chồng bà đã trở về khi thấy cuộc sống của bà đã được thay đổi. Sau khi gia đình này đã được đoàn tụ thì chúng tôi mất liên lạc, nhưng tôi tin rằng Chúa Giê-xu đã làm thành công việc của Ngài trên gia đình này và chắc chắn Ngài cũng sẽ đưa tay Ngài ra để dẫn dắt họ. Còn Ê-vơ-linh (Evelyn) có tiếp nhận Chúa hay không thì tôi không biết, chỉ có một điều là Giê-xu đã sai tôi đi và tôi đã làm xong nhiệm vụ. Việc còn lại tôi giao trong tay Ngài. Điều quan trọng ở đây là chúng ta có sẵn sàng vâng theo mệnh lệnh của Ngài hay không mà thôi.
Với Giê-xu thì không có việc chi là không thể được, không việc gì là khó cho Ngài. Ngài là Đấng hôm qua, ngày nay, ngày mai và cho đến đời đời không hề thay đổi như Kinh thánh đã chép. Công việc của tôi còn tiến xa hơn với kinh nghiệm tại đường... Tôi có dịp nói chuyện với sinh viên Trường Sư Phạm ở đường Bờ-rai-tân (Brighton). Sau khi xong lời làm chứng, tôi để thì giờ cho các sinh viên đặt câu hỏi. Chỉ với sự giúp đỡ của Chúa, tôi mới có thể giải đáp thỏa đáng được các câu hỏi của sinh viên. Chúa Giê-xu đã dạy tôi phải trả lời thế nào và tất cả sự vinh hiển đều thuộc về Ngài. Tôi ngợi khen Ngài không thôi. Các sinh viên thích biết những điều mới lạ, họ thích nghe những điều về ma quái, phù phép và thế giới huyền bí. Chính vì thế nên tôi rất cẩn thận trong lời làm chứng. Vì nếu có ai đó chỉ hiểu lầm một chút cũng là một mối nguy hại lắm rồi.


Lần đầu tiên xuất hiện trên truyền hình cũng là một kinh nghiệm khó quên đối với tôi. trong chương trình hằng ngày của Đài Truyền Hình Phía Nam, tôi đã có dịp nói chuyện với hàng ngàn thính giả. Lời cầu xin của tôi là danh Chúa được vinh hiển khắp nơi. Làm thế nào một gái mãi dâm, một con nghiện, một mụ phù thủy có thể trở thành một nhà truyền giáo? Đó là câu hỏi của nhiều khán thính giả. Câu trả lời của tôi là: Một người như vậy không thể làm gì được cho đến khi nào bằng lòng giao phó đời sống trong tay Chúa Giê-xu để Ngài biến đổi. Tôi không thể biến đổi tôi được, nhưng bây giờ tôi là một thọ tạo mới trong Chúa Giê-xu vì chính Ngài đã biến đổi tôi.


Tôi cứ tiếp tục công việc của Chúa như thế tại các đường phố hay qua các đài truyền thanh, truyền hình. Một hôm, lúc đang tham gia trong đoàn truyền giáo tại Ca-rô-đíp (Carodiffs), sau đêm tại đó, tôi thấy mắt cá chân tôi bị sưng tấy. Tôi tin chắc rằng Sa-tan đang tìm cách ngăn trở tôi, tuy nhiên, Chúa lại đổi tai nạn này trở nên tốt đẹp. Tại bệnh viện Ca-rô-đíp (Carodiffs), tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng các bệnh nhân tại đây nhớ mặt tôi trên truyền hình tối hôm qua, còn tôi thì vì đau quá nên tôi quên hết những gì tôi đã làm tối hôm qua. Cả các y tá, các sinh viên cũng không quên tôi. thế là tôi có dịp thuận lợi nói về Giê-xu cho họ. Tất cả mọi người trong bệnh viện, kể cả các bệnh nhân, lại một lần nữa được nghe về Cứu Chúa. Các bác sĩ trong lúc mổ chân cho tôi rất ngạc nhiên khi nghe nói thế nào Giê-xu đã thay đổi đời sống tôi. một bác sĩ nói: “Không một thứ thuốc nào chữa cho bệnh nghiện cỡ như cô được, cô đang sống bởi một phép lạ”. Một bác sĩ khác nói trong lúc đang xem phim X_quang hình chân tôi “Này cô truyền giáo, cô không truyền đạo được trong một thời gian, cô không thể đi được, phải đợi cho lành hẵn đã”. Tôi mỉm cười khi nghe ông ta nói thế vì tôi đang giảng Tin lành ngay trên xe lăn tay mà tôi đang ngồi đấy chứ. Tôi lại được một bác sĩ là tín đồ tốt đưa tôi về nhà ông ấy. Tại đây tôi đã thực hiện chương trình truyền giáo qua máy thâu băng. Lại một lần nữa, danh Chúa được vinh hiển. Sau đó mắt cá chân tôi được lành và tôi trở lại Ca-rô-đíp (Carodiffs). Tôi không biết được kết quả vĩ đại mà Chúa đã làm qua tôi trên chương trình truyền hình vừa qua.
Một hôm, tôi được mời làm chứng tại một nhà thờ lớn ở Ca-rô-đíp (Carodiffs). Gần hết bài giảng thì có một tiếng từ giữa hội chúng: “Chúa Giê-xu có thể làm mọi sự cho tôi không ạ?”. Tôi trả lời: “Vâng, Giê-xu có thể làm mọi sự, không có việc chi khó cho Ngài cả. hãy tiến đến phía trước, tôi sẽ cầu nguyện cho bạn”. Tức thì một chàng trai ăn mặc lòe loẹt tiến đến. Chàng quì xuống và tôi đem chàng trai trẻ này đến với Cứu Chúa. Sau đó chàng kể tôi nghe câu chuyện đời chàng. Tên chàng là Sa-mu-ên (Samuel), một người tù vừa mới được trả tự do. chàng nói: “Lúc còn ở trong tù, tôi thấy cô trên truyền hình, tôi lắng nghe tất cả những gì cô nói và khi về lại phòng giam, tôi nói ‘Ôi Lạy Chúa, nếu quả thật Ngài đang hiện hữu, xin cho con gặp người đàn bà đó’. Thế rồi khi ra khỏi tù tôi gặp cô thật. Đời tôi là một đời tội lỗi, bịp bợm; còn cô, cô có cái gì mà tôi không có, nhưng bây giờ tôi biết tội lỗi tôi đã được Ngài rửa sạch rồi”. Còn gì sung sướng hơn khi thấy đời sống của Sa-mu-ên (Samuel) được Chúa Giê-xu thay đổi! Bây giờ Sa-mu-ên (Samuel) là một tín đồ rất tốt, chàng luôn làm chứng về Chúa Giê-xu. Chàng đến thăm tôi vài tháng trước đây. Gương mặt chàng chiếu rạng vinh quang của Chúa, môi miệng chàng luôn ca ngợi Chúa. Lời cầu nguyện của chàng thật cảm động. Sa-mu-ên (Samuel) là một chiến lợi phẩm của ân điển, chàng làm chứng tại nhà thờ và rao giảng Tin lành ở ngoài đường phố. Sa-mu-ên (Samuel) là nguồn phước lớn.


Còn phần tôi, càng ngày càng lớn lên trong sự hiểu biết Cứu Chúa. Tôi dự những chương trình lớn hơn. Vì trên thế gian này còn có nhiều người đang đau khổ, cô dơn, chán nản, vô hy vọng và tôi từng có kinh nghiệm đó, nên tôi có sứ điệp đặc biệt cho họ. Sứ điệp mà tôi thường nói với mọi người rất đơn giản “Có một Người rất lưu tâm đến bạn và hiểu bạn, tên Những người đó là Giê-xu. Người đã nói: ‘Hỡi những kẻ mệt mỏi...”. Tôi chứng minh cho mọi người thấy Người là Sự Sáng, Tình Yêu. Là Nơi An Nghỉ. Ngài là Bạn Thật... và Ngài đã chết trên cây gỗ để mọi người ở mọi nơi được hưởng sự vui mừng...”.


Tôi cũng rất vui khi nói với Ba tôi về sự cứu rỗi, về thể nào Giê-xu đã thay đổi cuộc đời tôi. Ông bảo rằng ông rất hãnh diện về tôi. Tuy nhiên, ông vẫn chưa tiếp nhận Chúa Giê-xu, tôi đang cầu nguyện cho ông. Tôi chưa tìm thấy Mẹ tôi kể từ ngày bà rời nhà ra đi lúc tôi mười một tuổi. Tôi đã không thể tìm thấy bà nhưng tôi tin rằng một ngày kia tôi sẽ gặp bà. Chúa Giê-xu biết bà đang ở đâu, và tôi sẽ gặp Mẹ tôi sớm hơn tôi tưởng. Còn bốn em tôi, tôi đã gặp được hai người. Họ đều mạnh khoẻ. Một đã có gia đình với hai con. Hai em tôi cũng biết Chúa Giê-xu đã thay đổi đời sống chị của chúng ra sao. Tôi tin rằng sự cầu nguyện thay đổi mọi sự, vì đời sống tôi đã chứng minh điều đó. Tôi luôn luôn cầu nguyện cho cha và em tôi. Chúa đang làm việc theo mục đích của Ngài. Tôi giao mọi sự trong tay Ngài, là Đấng biết mọi sự từ buổi ban đầu.


Tôi chưa nhắc đến chồng tôi là Đa-vít (David), vì đó là chuyện riêng của tôi. tôi đã kết hôn với một Cơ-đốc nhân tốt, luôn đứng cạnh tôi,giúp đỡ tôi và hướng dẫn tôi trong công tác phục vụ Chúa. Đa-vít (David) là người cầu nguyện trong khi tôi rao giảng. Cả hai chúng tôi biết rằng cuộc đời chúng tôi đều dâng trọn cho Chúa, không có một khó khăn nào gây trở ngại chúng tôi hầu việc Chúa.c rất nhiều người đến gặp chúng tôi tại nhà. Người thì cần chúng tôi giúp đỡ trên bước đường theo Chúa; người thì cần được khích lệ; người thì cần thoát khỏi xiềng xích của tà ma là chủ của sự tối tăm. Chúng tôi thật hết sức vui mừng khi những linh hồn đó được phước của Chúa tại căn nhà nhỏ hẹp của chúng tôi. chúng tôi biết rằng sự cầu nguyện thay đổi mọi sự và rằng Giê-xu thỏa mãn mọi nhu cầu của mọi người, không cứ việc đó lớn hay nhỏ. Chồng tôi là một Cơ-đốc nhân phục vụ Chúa đắc lực trong hậu trường. Tôi cảm tạ Chúa vì sự giúp đỡ dìu dắt của chồng tôi.


Sự giàu có tâm linh


“Vì chúng ta đánh trận chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối này, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy” Eph 6:1, 3.
Các phù phép, các bùa ngải có hại gì không? Một ký giả hỏi tôi như vậy. Vâng, nó rất tai hại ở bất cứ hình thức nào, dù thật đơn sơ như coi chỉ tay chẳng hạn. Đó là những thứ tai hại cần được cảnh cáo vì đã dưa rất nhiều đàn ông, đàn bà đến nhốt ở nhà thương điên, khiến họ sợ hãi, tự tử và đi xuống địa ngục. Chúng ta phải đối đầu với sự thật. Các phù phép đã lan rộng trên thế giới như là bệnh ung thư nguy hiểm. Tôi không thể kết luận cuốn hồi ký này mà không nói lên những lời cảnh cáo đối với giới thanh niên đã đùa giỡn với ma quỷ là chủ quyền của sự tối tăm. Chúng ta phải nhắc nhở họ rằng “Các thanh niên, đừng đùa giỡn như thế!”.
Loài người có thể cung cấp sự văn minh cho trí tuệ, nhưng loài người không khỏa lấp được sự trống rỗng hay rịt những vết thương lòng. Loài người có thể làm được chăng? Chẳng bao giờ! Thanh niên đang đi tìm câu giải đáp đó. Nhìn lại quá khứ đời mình, những lúc sự trống rỗng chiếm hữu tôi là lúc tôi buồn khổ vô hạn. Tôi biết thanh niên đi tìm sự thật, đi tìm câu trả lời và họ đã đổ xô vào ma túy, thuốc phiện, vào thế giới huyền bí của ma thuật. Nhưng Kinh thánh bảo chúng ta hãy chống lại ma quỷ và các hình thức đội lốt của nó. Có nhiều tín hữu rất sợ hãi khi nghe đến ma quỷ, phù phép hay quỉ hiện hình. Thế giới huyền bí đã làm cho họ sợ hãi. Nhưng tại sao chúng ta lại sợ hãi chúng? Đó là những điều thật xảy ra hằng ngày. Chúng ta hãy nhớ kỹ rằng Giê-xu mạnh hơn tội lỗi và Sa-tan bội phần. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta không sợ hãi quyền lực của Sa-tan hay bất cứ hình thù nào của nó cả. Cũng chẳng sợ phù phép hay bùa ngải, thư ếm của nó. Đấng ở trong lòng bạn mạnh hơn Sa-tan rất nhiều. Nếu để những hình ảnh Sa-tan ám ảnh thì thật là nguy hiểm. Mặc dầu công tác truyền giáo của tôi là lột trần bộ mặt độc ác của Sa-tan nhưng tôi không luôn luôn nói về ma quỷ đâu, chỉ khi nào được yêu cầu thôi, nhưng không phải nói để tôn quyền lực của nó, nhưng để mọi người biết sự độc ác và quỉ quyệt của nó. điều tôi vui thích được nói nhất là về Tin lành của Chúa Giê-xu thôi.


Sách Khải-thị có chép: “Và họ thắng nó bởi huyết của Chiên Con và bởi lời làm chứng của họ”. Sa-tan ghét những người làm vinh hiển danh Giê-xu qua lời làm chứng của họ. Khi Giê-xu còn tại thế, Ngài chữa người đau, đuổi tà ma khỏi kẻ bị quỉ ám. Nhưng thời đại ngày nay, còn có nhiều người bị tà ma ám hơn thời đó vì chính Chúa Giê-xu nói rằng: “Càng ngày điều ác càng gia tăng”. Hiện nay rất nhiều cửa ngỏ đang đợi Sa-tan bước vào.
Vâng, Sa-tan có thật rất rõ ràng. Nhưng cảm tạ Chúa vì Giê-xu rất thực hữu. Lời Ngài nói như vậy và tôi cũng chứng minh điều đó nữa. Ma quỷ bị đuổi ra trong danh Chúa Giê-xu. Ma quỷ sợ Chúa rồi, rất sợ Chúa.
Kinh thánh chép: “Hãy đi ra loan báo rằng nước thiên đàng ở trong các ngươi. Hãy chữa kẻ đau, làm sạch người phong,đuổi tà ma ra khỏi kẻ bị quỉ ám. Các ngươi đã được cho không, hãy phát không”.
Chúng ta là môn đệ của Ngài. Tôi là môn đệ của Ngài. Ngài đã giải thoát tôi từ trong chốn tối tăm, đưa tôi đến tự do thật. Ngài đã đổ đầy Thánh Linh Ngài trên tôi. Vì thế, tôi tự nguyện dâng tất cả đời sống tôi cho Ngài, Ngài tha thứ cho tôi nhiều, tôi càng yêu Ngài nhiều hơn.
Một ngày kia, tôi cộng tác với ban truyền giảng tại Li-véc-pun (Liverpool). Mỗi đêm đều có những linh hồn tiếp nhận Chúa. Nhiều kẻ đau được chữa lành. Tôi chẳng bao giờ quên một tuần lễ ở đó vì Chúa đã đổ ơn phước Ngài xuống cách rõ ràng.


Gần ngày cuối của chiến dịch, có nhiều điều kỳ diệu xảy ra. một bà già đến gặp tôi, bà nói: “Xin cô cầu nguyện cho Đa-vít (David), cháu nội của tôi. Lúc còn thiếu niên nó là Cơ-đốc nhân tốt, nhưng bây giờ nó đã mắc vào bẫy của ma quỷ”. Nước mắt chan hòa trên đôi má bà cụ, bà tiếp: “Nó đã sống với tôi từ lúc còn nhỏ, tôi yêu quý nó vô cùng. Nhưng bao giờ nó là gánh nặng trên vai tới tôi không thể an nghỉ cho đến khi nào nó được giải phóng. Một tối kia, trong lúc tôi chờ đợi cháu trở về, vì tôi chẳng bao giờ nghỉ được cho đến khi tôi thấy nó trở về nhà bình an. Tôi đang ngồi trên ghế và cầu nguyện và rồi cảm biết có sự hiện diện của một con quỉ trong phòng. Thình lình tôi mở mắt, tôi thấy một con ma hiện rõ hình thù của nó. Tôi kêu danh Giê-xu thì nó lui khỏi.


Khi Đa-vít (David) trở về, tôi thấy nó lo lắng và tôi kể lại chuyện xảy ra cho nó nghe và nài xin nó hãy bỏ mọi sự mà trở về với Chúa Cứu Thế. Đa-vít (David) rất sợ hãi, nó quyết định sẽ bỏ bùa chú, phù phép. Tuy nhiên, nó không tự do từ bỏ cách dễ dàng. Hằng đêm tôi nghe tiếng chân nó đi lên đi xuống trong phòng. Nó đang ở trong tình trạng kinh khủng. Còn tôi thì luôn cầu nguyện cho nó. Tôi nài nỉ với nó hãy đi tới đây, nhưng nó từ chối rằng ‘Đã quá trễ’”.


Nói xong chừng ấy, tôi cầu nguyện cho bà. Lúc bà rời khỏi phòng, bà đầy tin tưởng. Tối hôm sau, Đa-vít (David) có mặt trong buổi nhóm. Khi tôi chấm dứt bài giảng, tôi kêu gọi ai muốn được cầu nguyện, xin tiến lên phía trước. Có rất nhiều người đáp ứng lời kêu gọi của Chúa. Có người cần được chữa lành bệnh thân thể, có người đến tiếp nhận Giê-xu làm Cứu Chúa của đời sống mình. Đức Thánh Linh đầy dẫy trên buổi nhóm. Nhiều linh hồn được cứu và nhiều thân thể được chữa lành. Lúc ấy, tôi không biết rằng chàng thanh niên mà tôi đã cầu nguyện cho tối hôm qua đó thì tối nay lại có mặt tại đây. Tôi cầu nguyện cho từng người một và tới chỗ Đa-vít (David). Tôi hỏi: 
_“Em tên gì?”.


-“Dạ thưa Đa-vít (David)”. 
Thánh Linh cho tôi biết ngay đây là cháu nội của bà cụ hôm qua. Tôi tiếp: 
_“Em đã làm tan nát lòng bà nội em, Đa-vít (David) à”. Chàng rất đỗi ngạc nhiên. Tôi tiếp: “Em đang đùa với lửa, em biết không? Em cầu cơ và hành nghề phù phép, nhưng em đến cùng Chúa Giê-xu đêm nay, Ngài sẽ giải phóng cho em được tự do”. 
Chàng trả lời: 
_“Làm sao cô biết được những điều cô vừa mới nói đó?”. 
-“Bà nội của em đã nói về em và tối nay chính Chúa cho biết rằng em là đứa con trai đó”.


Vâng, trong vòng 500 người tiến đến phía trước để cầu nguyện nhưng Chúa đã chỉ cho tôi biết chính đó là Đa-vít (David), đứa cháu nội của bà cụ kia.
Chàng thanh niên ở lại sau cùng và tôi đã nói chuyện với em mấy tiếng đồng hồ, chỉ cho em những tội lỗi mà em đã làm. Đa-vít (David) ăn năn tội thực sự, nhưng phải mất thời gian khá lâu, chàng mới được giải phóng với sự cầu nguyện nhiệt thành của các tín hữu. Tôi đã đuổi bảy con quỷ ta khỏi người con trai ấy, truyền cho tà ma xuống địa ngục trong danh Chúa Giê-xu. Đó là một trận chiến rất lớn, một chiến trận với chính Sa-tan. Tà ma rất mạnh, cố chống lại, nhưng Giê-xu mạnh hơn, và cuối cùng Đa-vít (David) đã thắng bởi quyền năng Chúa Giê-xu là Đấng Chiến thắng.
Lúc 3 giờ sáng hôm sau, Đa-vít (David) làm phép Báp-têm bằng nước đã có sẵn tại trại và cũng làm phép Báp-têm bằng Đức Thánh Linh. Chàng ca ngợi Chúa bằng tiếng của Thiên đàng, làm sao tả xiết sự vui mừng ấy.
Bà nội của Đa-vít (David) đứng bên cạnh, nước mắt tuôn trào, bà dâng lời ngợi khen Chúa vô cùng. Bà nói: “Bây giờ tôi có thể an nghỉ được rồi. Đa-vít (David) ngợi khen Chúa luôn miệng. Nó đốt tất cả bùa ngải, ngợi khen Chúa”.


Thưa quý độc giả, công trường thuộc linh không phải lúc nào cũng thắng đâu, cũng có lúc thất bại chứ; đó là lúc tôi bị ngã xuống trong một cuộc thất trận bởi sự xô đẩy rất lớn, đó là lúc tôi thiếu ân điển và sự khôn ngoan. Bấy giờ Sa-tan cười dòn: “Mày không có gì cả, chỉ toàn là thất bại, hãy bỏ khí giới của mầy xuống đi”.


Thay vì để cho thất bại ngăn trở, tôi để cho Chúa đỡ dậy; tôi gieo mình nơi chân thập tự giá và chấp nhận sự thất bại của mình. Tôi đã khóc với Chúa: “Giê-xu ơi, con đã thất bại, con đã làm hư công việc của Ngài. Nhưng con vẫn yêu Ngài, xin gia ân điển Ngài trên con để con tiến tới”. Có bao giờ Ngài dùng cây gậy rất lớn để đẩy chúng ta ra khỏi hàng của Ngài, vì chúng ta đã thất bại không? Không, ngàn lần không. Trái lại, Ngài dùng con roi nhân từ răn dạy chúng ta. Nếu chúng ta ăn năn tội mình, Ngài sẽ đỡ chúng ta đứng trên chân mình và dìu chúng ta tiến tới.


Chính chỗ tôi thất bại đã đưa tôi đến chỗ hoàn toàn tùy thuộc vào Giê-xu, vị chỉ huy của tôi. Điều thích thú của Sa-tan là thấy ta thất bại, nó liền bảo rằng ta không trọn vẹn, không thánh khiết đủ đâu và chẳng bao giờ ngóc đầu lên được. Nhưng cảm tạ Đức Chúa Trời chỉ có Giê-xu mới giúp chúng ta chiến thắng mọi sự.
Thưa các bạn Cơ-đốc nhân yêu quý, mỗi khi thất bại, hãy ngước mắt lên và trình với Chúa những thất bại ấy, đừng nhìn vào mình. Nương mình nơi Ngài, bưốc theo Ngài càng cao, càng cao hơn, càng sâu, càng sâu hơn với Christ.


Tôi vẫn ở trên trận chiến với Chúa tôi. không có Ngài, tôi chẳng làm chi được; không có Ngài, tôi chỉ có thất bại. Lúc nào còn hơi thở, tôi còn hầu việc Ngài; lúc nào Ngài còn cho tôi mượn tiếng nói, tôi ca ngợi Ngài, nói về tình yêu của Ngài, ân điển Ngài, lòng thương xót Ngài, quyền năng Ngài. Tôi muốn cả thế giới biết rằng tôi yêu Ngài. Tôi muốn nói cho mọi người biết rằng Giê-xu đang sống, Giê-xu đang lo liệu cho tôi, Giê-xu của tôi thật tuyệt diệu. Ngài làm mọi sự, không hề có việc gì khó khăn cho Ngài. 
Một chiến thắng lớn nữa là tôi viết xong đư1ợc sách này, đó là một cuộc tranh chấp lớn. Lúc đầu tôi không muốn viết, vả lại, tôi nghĩ rằng mình không thể viết được. Có nhiều người hỏi tôi: “Tại sao bà không viết một cuốn sách?” Nói thì dễ nhưng có mấy ai làm được? Hơn nữa, chúng tôi không có thì giờ. Nhưng sau khi cầu nguyện, tôi bắt đầu viết được dưới sự hướng dẫn của Chúa.


Tôi cầu nguyện cho tất cả độc giả được phước của Chúa Giê-xu. Cuối cùng tôi ngợi khen Chúa và cứ ngợi khen Ngài hơn nữa. Lạy Chúa, xin đến mau chóng! Ô, Giê-xu, Ngài là Cứu Chúa của con! A-men!


Hết