Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Monday, November 26, 2012

Từ Ma Thuật Đến Christ—4



Ngón tay của Đức Chúa Trời

Chiều hôm sau, Mục sư Nên (Neil) đến với hai vị mục sư hôm trước. Tôi thấy họ tới cổng và bước vào cửa. Thình lình, một giọng nói với tôi: “Đừng mở cửa, đừng liên lạc gì với họ hết”. Tôi kinh hãi quá đỗi vì ngay lúc đó tôi hiểu rằng quyền lực của sự tối tăm ở trong tôi, đáng sợ hãi hơn tôi nữa; còn tôi thì biết rằng mục sư Nên (Neil) là người có thể giúp tôi, nên mặc dầu sợ, tôi vẫn mở cửa để đón rước ông. Mục sư Nên (Neil) quả thật là lạ đối với tôi. Tôi biết rằng ông là một người thánh của Đức Chúa Trời. Tôi cũng thấy mình đen thui như than và xấu xa như quỉ trước mặt ông. Ông hiểu tôi, ông khiến tôi thấy dễ chịu, ông rất hiền từ và tử tế. Tình yêu như chiếu ra từ đôi mắt ông. Tôi phải ngó lơ qua chỗ khác tránh đôi mắt ấy. Có cái gì sâu kín trong lòng tôi chống cự ông, nhưng chẳng phải chính tôi làm điều đó. Ông bắt đầu câu chuyện:


_“Những giọng nói mà cô nghe đó có xưng tên không?”. 
_“Dạ không”.
_“Có ác linh nào trong cô không?”.
Cho đến bấy giờ tôi mới nhận thức rằng có uế linh ở trong tôi. Chúng làm chủ thân thể tôi. Rồi Sa-tan lại nói nữa nhưng chỉ một mình tôi nghe thôi: “Hãy nói với ông ta rằng chẳng có chi cả”. Bây giờ thì tôi lấy làm lạ. Lần đầu tiên tôi biết chúng cư trú trong tôi, không phải ở bên ngoài. Tôi giật mình rợn tóc gáy. Tuy nhiên, tôi lại nghe hắn mà trả lời với ông ấy rằng không có chi cả, không có ác linh nào trong tôi cả. Nhưng mục sư Nên (Neil) không cần nghe, ông biết rõ rằng tôi bị uế linh ám. Ông chỉ tay vào tôi và nói với ma quỷ bằng tiếng lạ. Ông truyền cho tà ma phải ra khỏi tôi nhân danh Giê-xu. Tôi kinh sợ ngồi xuống ghế. Tà ma ở trong tôi càng sợ hơn nữa. Mục sư Nên (Neil) đặt tay trên đầu tôi như hai vị kia đã làm hôm trước. Quyền lực của sự tối tăm ở trong tôi đang run rẩy quá đỗi. Sau đó, mục sư Nên (Neil) nói rằng ông đã dùng quyền lực nói tiếng lạ mà đuổi quỉ. Tôi tin rằng tôi sẽ được giải phóng. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn lúc nãy. Khoảng hơn một giờ sau đó các vị mục sư ra khỏi nhà tôi.


Tuy nhiên, mục sư mục sư Nên (Neil) bảo rằng việc giúp tôi thoát khỏi quyền lực của sự tối tăm chỉ là bước đầu của chuỗi ngày dài còn tiếp theo. Ông nói thật chẳng ngoa chút nào. Nếu tôi cảm thấy dễ chịu khi ở với các vị mục sư bao nhiêu thì ngay đêm đó tôi trải qua một đêm kinh hoàng bấy nhiêu. Ngay tờ mờ sáng hôm sau, tôi đã thức dậy trong sự kinh khiếp, tôi bị bủa vây bởi quyền lực của Sa-tan. Tôi nghe có tiếng nói của ma quỷ, nhưng lần này chúng cho biết tên, trong tôi như bị ai đem xé ra từng mảnh, tôi nghe chúng nói: “Đừng liên lạc gì với ông Nên (Neil) hết. Ta là Nghi Ngờ và Không Tin. Ta sẽ không ra khỏi đây”. Thế rồi có những tiếng kêu lớn lên rằng: “Ta cũng không ra - Ta cũng không ra, tôi cũng không, tao cũng không...”. Âm thanh nghe như một điệp khúc lớn dần, lớn dần, tôi rợn tóc gáy, tấm khăn trải giường ướt đẫm mồ hôi. -“Ta là Gian Tà”, đứa khác nói. -“Ta cũng không đi, ta là Ma Thuật”, một giọng nói nghe rất uy quyền. -“Ta là Kiêu Ngạo, ta cũng sẽ không ra khỏi đây”. -“Ta cũng không - Ta cũng không - Ta cũng không...”. Tà ma cứ lần lượt nói, hết con này đến con khác. Tôi nghĩ chắc mình sẽ điên mất. Bây giờ thì tôi chưa điên, nhưng nếu tà ma không ra khỏi tôi thì nhất định tôi sẽ điên. Tôi tự hỏi: “Giê-xu ở đâu? Sự sống ở đâu?”. Mắt tôi chẳng thấy sự sáng chi hết. Sự tối tăm của địa ngục như phủ trùm tôi. Cuối cùng tôi ngồi dậy, tôi nghe một giọng khác nói: “Hãy gọi điện thoại cho mục sư ở Hội thánh Báp-tít bảo đừng đến đây nữa”. Tôi gọi điện thoại cho mục sư để nói cho ông biết những gì đã xảy ra cho tôi sáng nay, nhưng vợ ông trả lời rằng ông đang trên đường đến nhà tôi. Tà ma trong tôi không cho tôi ngồi xuống. Vào lúc 11 giờ sáng tôi nghe tiếng gõ cửa và tôi biết đó là vị Mục sư... Ông vẫn nhu mì như bao giờ. Tôi nói với ông những tên mà tôi đã nghe sáng nay, ông bảo tôi đừng sợ, ông sẽ liên hệ với mục sư Nên (Neil) ngay. Nghe đến tên mục sư Nên (Neil), tôi cảm thấy sợ hãi, nhưng không phải chính tôi, một lần nữa tôi biết những tà ma trong tôi rất run sợ. Mục sư Gióp (Jobb) giải thích rằng vì cớ mục sư Nên (Neil) ở tận bờ biển Bơn-hem (Burnham) nên tôi không thể gặp ngay được. -“Tôi sẽ cho cô biết khi nào ông ấy đến. Trong lúc chờ đợi, cô đừng lo lắng quá, tôi sẽ cầu nguyện cho cô”. Vài ngày sau thì mục sư Nên (Neil) lại đến. Ông rất bận việc vì là mục sư của một Hội thánh lớn. Vài ngày chờ đợi này giống như những năm dài đằng đẵng. Tôi đi xuống các chỗ quen thuộc khi xưa: phòng trà, rạp chiếu bóng, bãi thực tập phù thủy, nhưng tôi cảm biết rằng tôi bị đẩy đến những chỗ này, tà ma cầm quyền điều khiển tôi. Cũng trong thời gian này tôi có đến vài nhà thờ rồi chạy ra, chẳng nhớ tôi đã hành động những gì nữa. Tôi uống rượu nhiều hơn bao giờ hết, tôi đi các nơi nhưng chẳng nhớ là mình đã đi đâu. Tôi luôn luôn mặc bộ đồ đen phù thủy, những lúc tôi hoàn toàn bình tĩnh lại thì tôi muốn tìm kiếm sự trong sạch, sự tự do thật, sự yêu thương và sự phục vụ Giê-xu và chỉ một mình Ngài mà thôi. Bây giờ tôi giống như có hai con người vậy. Một là gái mãi dâm, nghiện thuốc và một con người khác là được thay đổi hoàn toàn, được hưởng sự vui mừng và sung sướng.


Một sáng thứ bảy, tôi nghe nói mục sư Nên (Neil) đến, khi nghe thế thì uế linh trong tôi bắt đầu run rẩy. Tôi run từ đầu đến chân. Tà ma ra lệnh cho tôi: “Hãy xa lánh mục sư Nên (Neil). Ông ta rất thánh, rất thánh khiết đối với chúng ta, tránh xa đi, đừng đến nhà thờ”, hàng ngàn tiếng nói như sấm vang lên trong tôi, thế rồi người chứng đạo viên hôm nọ đem xe chở tôi đến nhà thờ gặp mục sư Nên (Neil). Một lần nữa tôi nhận biết rằng ông là người rất thánh của Đức Chúa Trời. Tôi cảm biết các tà ma trong tôi đang run sợ. Tôi định trốn nhưng không được, mục sư Nên (Neil) mỉm cười với tôi, ông làm tôi thấy dễ chịu, cặp mắt ông như nhìn thấu tâm can tôi. Tôi cố gắng hết sức để nói rõ với ông nhưng trong lúc nói thì ý nghĩ của tôi chạy đâu mất. Tôi bị tà ma lôi kéo nhưng mục sư Nên (Neil) lại biết điều này rõ lắm.
Bây giờ ông nói tiếng lạ, dùng ngón tay trỏ chỉ một cách đầy uy quyền. Tôi không nhớ gì nữa, tà ma đã giành quyền điều khiển tôi. Sau khi tỉn lại thì mục sư Nên (Neil) cho tôi biết những gì đã xảy ra: “Có 6 con tà ma đã ra khỏi cô, chúng nói qua môi miệng cô, con Nghi Ngờ đã ra khỏi cô với một quyền lực rất lớn, hai vị mục sư phải giữ cô trong lúc tôi ra lệnh cho các tà ma ra khỏi cô nhân danh Chúa Giê-xu tôi truyền cho chúng nó phải xuống địa ngục. Tà ma không muốn ra khỏi cô cũng không muốn xuống địa ngục trước thời điểm của chúng, nhưng cuối cùng chúng phải ra với những tiếng la kinh tởm. Chúng xâu xé thân thể tôi, cuộc tranh chấp xảy ra khoảng hai hay ba tiếng đồng hồ. Lần này thì các tà ma như Nói Láo, Tà Dâm, Kiêu Ngạo và Ma Thuật bị đẩy xuống địa ngục. Tà ma của Ma Thuật rất ồn ào, mục sư kể lại, nó than thở khi phải xuống địa ngục. Mục sư nói tiếp: “Cô có biết phù phép của En-Đo (Endor) không? Nó thét, hú thật rùng rợn, nó cố gắng thôi miên tôi, nhưng tôi chống cự nó trong danh Chúa Giê-xu, truyền cho nó phải xuống địa ngục. Rồi tà ma khác nữa, tên nó là Pháp Linh, nó kêu lên: “Không phải ở đó, không phải ở đó, ta đã chiếm hữu thân thể này từ lâu rồi, ta sẽ không bao giờ rời khỏi, ta cần một thân thể. Không phải ở đó, không phải ở đó, không phải ở địa ngục”. Tôi truyền lệnh cho nó: “Mầy không được ở trong thân thể người này nữa hoặc bất cứ thân thể ai khác. Ta truyền cho mầy phải rời khỏi thân thể người này ngay bây giờ phải xuống địa ngục, nhân danh Chúa Giê-xu”. Tuy nhiên, con quỉ Pháp Linh rất cố chấp, nó mặc cả dùng dằng mãi đến trước khi mục sư Nên (Neil) ra lệnh cuối cùng mở cửa hông bên cạnh, truyền cho tà ma phải rồi khỏi thân thể tôi mà xuống thẳng địa ngục. Nó la lớn: “Được rồi, ta sẽ đi, ta sẽ đi”. Mục sư nói, tôi bị té xuống nền nhà cho đến khi tỉnh lại, nhưng tôi không nhớ những gì đã xảy ra. Tôi chỉ biết một điều là tôi được trả tự do, các tà ma đã ra khỏi tôi. Tôi cúi đầu cầu nguyện cảm tạ Chúa Giê-xu đã giải phóng tôi. Tôi rất mệt, cổ tôi bị bầm tím, cả xương sườn và cánh tay tôi nữa. Có tất cả 6 tà ma đã ra khỏi tôi. Mục sư Nên (Neil) cầu nguyện cho tôi rồi ông ra về. 
Tôi cảm biết mình được sung sướng và tự do. Thật là tuyệt diệu! Tối hôm đó, tôi ngủ ngon như một đứa trẻ, một giấc ngủ mà tôi đã mất hằng bao nhiêu năm rồi.


Tuy nhiên, chỉ trong thời gian ngắn sau thì tà ma lại hiện rõ trong tôi nữa. Vài đứa nói tên, có đứa thì không. Tôi thất vọng quá đỗi vì tưởng rằng tất cả tà ma trong tôi là chừng ấy và đã bị trục xuất hết rồi. Chính tôi đã lầm nhưng mục sư Nên (Neil) thì không và ông hẹn tôi đến địa điểm hôm trước. Các bạn thấy đó, cuộc đời tôi đã để cho ma quỷ làm chủ, nhưng từ khi tôi muốn được tự do thì Chúa Cứu Thế Giê-xu đã giúp tôi. Không phải Ngài không thể đuổi tất cả tà ma ra khỏi tôi chỉ trong một lần, như Ngài đã làm lúc còn ở thế gian, nhưng như tôi đã nói, Ngài có đường lối riêng của Ngài. Ngài muốn các vị mục sư cũng như các Cơ-đốc nhân khác phải chứng kiến tà ma ở trong một con người là thế nào. Còn phần tôi, tôi đã học được một bài học đích đáng.


Giê-xu là Đấng chiến thắng


Thời gian, ôi thật là dài! Lúc này tôi rất bận rộn. Tục ngữ có câu: “Ma quỷ tìm việc cho bàn tay nhàn rỗi”. Đúng vậy, chúng nó đã tìm việc cho tôi! Sáu tà ma đã ra khỏi tôi và các tà ma khác cũng tiếp tục bị đuổi ra, những tà ma còn lại cũng sợ hãi vì sẽ phải bỏ nơi mà chúng chiếm cứ từ lâu nay. Đuổi ra cho hết đám quỷ đó cũng phải mất một thời gian dài mà mục sư Nên (Neil) phải kiêng ăn cầu nguyện trước mỗi lần giúp tôi. Tôi biết rằng ông phải đối phó với quyền lực tối tăm, vì vậy, kiêng ăn cầu nguyện là việc cần thiết để ông được đầy năng lực của Đức Thánh Linh.

Tà ma Quấy Rối là con quỷ tiếp theo bị đuổi ra. Vì nó mà tôi khốn khổ cả đêm lẫn ngày không lúc nào yên. Có vài lần trong cơn mê, tôi thấy bàn tay có vuốt nhọn của nó nắm lấy tay tôi. Khi thức dậy, thân thể tôi bị bầm tím cả. Ban ngày, tôi bị nó bắt đi từ chỗ này đến chỗ khác, tôi đi mà không biết mình đi đâu; cuối cùng về đến nhà, tôi mệt lả rồi lại nằm chiêm bao càng hãi hùng hơn trước nữa.


Lần thứ ba đi gặp mục sư Nên (Neil), tà ma Quấy Rối bảo tôi: “Hãy cầm theo một con dao và giết mục sư Nên (Neil) đi!”. Tôi vâng lời lấy một con dao bỏ vào xách tay. Nó ra lệnh cho tôi: “Giết hắn đi, Giết hắn đi!”. Vừa khi tôi đến nhà thờ, nó làm tôi loạn trí. Tôi nhận ra được điều này: Tà ma chỉ thấy mục sư Nên (Neil) qua cặp mắt của tôi, chúng biết mục sư sắp làm gì và mục sư cũng nhìn vào mắt tôi để ra lệnh cho tà ma. “Giết, giết”, con quỷ Quấy Rối lại ra lệnh nữa. Tôi không còn nhớ gì nữa cho đến khi con quỷ này ra khỏi tôi. Sau đó, mục sư kể lại rằng: Tôi đã cầm một con dao lớn và nhọn với mục đích đâm mù mắt ông. Tuy nhiên, ông đã khéo léo và dễ dàng chụp được con dao. Trong lúc mục sư cầu nguyện cho tôi thì có đến mười người đàn ông giữ tôi. Sự kèn cựa dùng dằng xảy ra cũng rất lâu vì chúng không chịu rời khỏi thân thể tôi. Sau một giờ chiến đấu tà ma phải kêu lớn tiếng lên, ra khỏi tôi và xuống thẳng địa ngục.


Giê-xu là Đấng toàn thắng


Mục sư la lên: lần này có bảy con quỷ ra khỏi cô. Thế mà tôi cũng chỉ yên được một thời gian ngắn, những tà ma khác còn lại trong tôi xưng tên chúng ra. chúng không chịu xuống địa ngục vì đó là nơi cuối cùng của chúng. Chúng cố biện hộ rằng chưa đến giờ chúng phải xuống đó. Nhưng mục sư gạt bỏ lời yêu cầu của chúng, có nhiều tà ma còn dẫn chứng Kinh thánh và bàn cãi lẽ thật. Vài đứa nói rõ nó đã chiếm hữu thân thể tôi mười lăm năm rồi. Mục sư giải thích rằng con uế linh đã chiếm thân thể tôi từ khi tôi bước vào nghề mãi dâm ở đại lộ Pát-đinh-tân (Paddington) lúc tôi mười lăm tuổi. Sau hồi lâu kèn cựa nó mới chịu rời thân thể tôi với tiếng kêu lớn. Nó rất mạnh. Thông qua thân thể tôi dùng đủ cách để quyến rũ, thu hút mục sư, nhưng cuối cùng nó phải chịu thua mà xuống địa ngục. Con quỷ Lét-bi-an (Lesbian) hiện ra rất rõ ràng, nó đối thoại với mục sư bằng một giọng rất hay, không phải giọng quê mùa của tôi. Mục sư nhắc đến Ma-ri Ma-đơ-len (Mary Madeleine), nhưng tà ma liền la lối: “Đừng nói với ta về Ma-ri Ma-đơ-len (Mary Madeleine). Ta là quỷ Phản Bội, đừng nói nữa”. Mục sư nhắc đến Gô-gô-tha, nơi Sa-tan cùng quỷ sứ đã bị sỉ nhục bởi sự đắc thắng của Chúa Cứu Thế Giê-xu thì: “Đừng nói với tao về đồi Gô-gô-tha, tao đã ở đó, tao có ở đó. Lâu lắm rồi trước khi tao chiếm hữu thân thể này, tao đã ở đó, đừng nói với tao về đồi Gô-gô-tha!”

Mục sư nói lớn: “Giê-xu là Đấng Toàn Thắng, Giê-xu là Đấng Toàn Thắng!”. Sau mỗi lần như vậy tôi cúi đầu cảm tạ Chúa Giê-xu, tôi hết lòng cảm tạ Ngài vì Ngài giải thoát cho tôi được tự do. Mục sư thường tuyên bố những lời mà tôi chẳng bao giờ quên: “Giê-xu mạnh hơn Sa-tan và tội lỗi. Trước mặt Ngài Sa-tan phải cúi đầu”.


Một lần kia, tôi được thấy chính Chúa Giê-xu, Ngài đứng phía sau mục sư, Chúa thật dịu hiền. Ngài mặc áo tỏa hào quang, sáng khắp cả phòng, mặt Ngài rất nhân từ, mắt Ngài đầy dẫy tình thương và Ngài đang nhìn thẳng tôi. Tôi biết rằng Ngài rất yêu tôi. Tôi biết tôi là con của Ngài. Tôi chẳng bao giờ quên Giê-xu có thể hiện thân thành một con người như tôi, và vì quả thật tôi rất cần hình ảnh thật của Ngài. Lúc bấy giờ cuộc chiến chưa chấm dứt còn lâu nữa. Dĩ nhiên Sa-tan không muốn mục sư tiếp tục công việc, chúng cố tìm cách ngăn trở.


Luy-xi-phe (Lucifer) bảo tôi: “Hãy trở lại bãi hoang tập lại phù thủy đi, hãy gạt bỏ những điều phi lý này đi”. Bây giờ tôi đã được tự do, con quỷ Phù Phép đã ra khỏi tôi rồi nên tôi rất dạn dĩ trả lời nó: “Không, tao chẳng bao giờ tới bãi hoang để thực tập nữa đâu". Tuy nhiên, tôi lại chợt nghĩ rằng tôi sẽ trở lại bãi hoang với một ý định và công việc khác. Càng suy nghĩ về điều đó tôi càng cho rằng đó là việc đúng và cuối cùng tôi đã ra đi.


Thưa quý độc giá, đó là một việc làm rất dại dột của tôi. Tôi đến bãi hoang và bọn chúng trả lời tôi bằng những cú đòn. Chúng kéo lê tôi vào một cái xe, đem tôi đến nơi vắng vẻ, tại đó chúng làm cho tôi bị câm. Chúng để tôi ở đó và tin rằng tôi sẽ chết trong giây lát thôi. Tuy nhiên, có một người đã thấy tôi và đem tôi vào bệnh viện. Ở bệnh viện tôi phải mất bốn ngày để chữa những vết thương do bị đánh. Giê-xu đã đặt tay Ngài trên tôi mặc dù tôi thật quá dại dột trong ý riêng của mình và một lần nữa kế hoạch của Sa-tan lại bị thất bại. Dù vậy, tôi học được một bài học và tôi chẳng bao giờ trở lại bãi hoang thực tập của phù thủy nữa.


Trong vòng hơn năm tháng, đã có nhiều tà ma ra khỏi tôi nhưng tôi vẫn chưa hoàn toàn được tự do. Tôi cảm thấy nản. Cho đến bao giờ tôi mới được hoàn toàn tự do? Năm tháng quả thật là dài. Khi nào thì con quỷ cuối cùng mới ra khỏi tôi? Các tín hữu cũng chán nản. Mục sư Nên (Neil) cũng cùng một tâm trạng đó nhưng ông vẫn tiếp tục công việc. Tôi rất vui khi ông tiếp tục vì nếu không, tôi không thể sống còn được như ngày nay và tôi chẳng bao giờ viết được quyển sách này. Thấy tôi chán nản, Sa-tan bảo tôi hãy chấm dứt việc gặp gỡ mục sư Nên (Neil). Một tối kia thật là kinh khủng, tà ma còn lại trong tôi rất mạnh, chúng chế nhạo tôi, chúng bắt tôi làm điều ác, tôi đi tìm ma túy, nhưng tôi không tìm được. Bạn biết không, tôi vẫn còn chích! Không một ai biết điều này cả. ngay cả mục sư Nên (Neil), mặc dù ông chỉ biết một cách loáng thoáng rằng tôi có hút một vài loại nào đó nhè nhẹ thôi. Tôi khóc lóc rên rỉ, trong tình trạng này, vì thế tôi bị đem vào nhà thương điên. Ở đây họ cho tôi uống thuốc ngủ, tôi ngủ suốt hơn một tuần lễ. Khi mới vào tôi cố gắng giải thích cho họ biết tại sao tôi bị như vậy, nhưng họ chẳng thèm nghe. Họ cho rằng tôi bị đau thần kinh nặng, thật sự tôi bị đau nặng, nhưng ai đã làm tôi đau? Dĩ nhiên không phải ma túy đâu. “Ma quỷ, ma quỷ”, bác sĩ rầy tôi: “Đừng nói sàm, không bao giờ có ma quỷ hết, chỉ cần chữa thuốc một thời gian rồi sẽ hết ngay”. Tôi bị cho uống thuốc ngủ hơn mười ngày. Khi thức dậy tôi tự nghĩ phải chăng tôi đã nằm mơ. Khi đã bình tĩnh tôi nghĩ rằng “Thôi, chẳng nên nói chi về Giê-xu trong lúc này khi họ cho rằng tôi điên nặng. Bây giờ thì tôi hết ghiền thuốc rồi. Đó là điều tốt cho tôi, nhưng bác sĩ cứ bắt tôi uống hết liều thuốc ngủ này đến liều khác, uống mãi, tôi sợ tôi sẽ bị loạn trí vì thuốc, nhưng họ đâu chịu nghe tôi, không ai thèm để ý đến điều tôi nói.


Sa-tan bảo tôi “Thấy không, mầy điên rồi, mầy sẽ chẳng bao giờ được ra khỏi đây, hoặc có ra được đi nữa, mầy cũng sẽ điên mãi mãi”. Tôi chán quá nên gần như tin lời đó là thật. Sa-tan cười nhạo tôi “Ha...ha...hă, Mầy đã trở thành con người của tao rồi”. Không ai chịu tin rằng ma quỷ có thể chiếm hữu một con người. Tôi suy nghĩ còn thứ gì sẽ xảy ra nữa, hay tôi bị nhốt ở đây suốt đời sao? Tất cả như đêm tối. Luy-xi-phe (Lucifer) lại chế nhạo nữa: “Nào, Giê-xu của mầy ở đâu?”. Tôi cũng tự hỏi: “Ừ nhỉ, Giê-xu ở đâu?”. Người ta lại rọi điện trong đầu tôi, tôi biết làm như thế chẳng ích gì, tà ma chẳng bao giờ ra khỏi tôi theo cách đó cả. một ngày kia, tôi kéo tay người y tá lại phân trần với cô ấy rằng trước kia tôi là một gái mãi dâm, hút xách, nhưng có một đêm tôi đến dự buổi giảng Tin lành và tôi đã dâng lòng tôi cho Giê-xu, cô nghĩ gì về điều ấy? Cô y tá trả lời: 
_“Ồ, cô bị điên nặng lắm rồi, không có Giê-xu nào cả, đó chỉ là những điều phi lý thôi”


Tôi trả lời:
_“Ừ, phải chi cô là một tên phù thủy, một gái mãi dâm, một con nghiện bị người ta hiểu lầm và cô muốn có một cuộc sống mới trong Chúa Cứu Thế Giê-xu nhưng cô bị người ta cho rằng đó là những điều phi lý, thì thưa cô, cô nghĩ sao?”
Nàng yên lặng quay đi. một lát sau, cô trở lại bảo tôi: 
_“Cô biết không, cô nói đúng lắm. Cô khác với tất cả các bệnh nhân khác ở đây”.


Về phần tôi lúc này tôi bị ghiền thuốc ngủ, tôi không thể ngủ được nếu thiếu nó. trung bình mỗi đêm tôi chỉ ngủ được khoảng ba tiếng đồng hồ. Thế rồi bác sĩ đem tôi đi rọi điện nơi đầu, họ cho rằng tôi bị đau óc vì chất thuốc phiện gây nên. Tôi điên đầu với mọi điều mới xảy đến cho tôi. Tất cả chỉ vì tôi muốn trở thành một Cơ-đốc nhân. Sa-tan nhạo tôi “Có phải Giê-xu là Đấng Toàn Thắng không? Nào Giê-xu của mầy ở đâu?”. Lạ lùng thay trong lúc khủng hoảng như vậy thì lời đơn ca hôm nọ lại vang lên bên tai tôi:
“Giê-xu săn sóc, Giê-xu giúp đỡ, Ngài có thể cất tội lỗi và sự tối tăm đi ”.
Tôi biết rõ một điều là chỉ có Giê-xu mới giải thoát được cho tôi mà thôi, bác sĩ không làm chi cho tôi được bây giờ. Tôi hồi tưởng lại hình ảnh Chúa Giê-xu. Có phải tôi nằm mơ không? Dĩ nhiên là không. Giê-xu rất thực hữu, Ngài thật sự giúp đỡ tôi.


Quá sức ngạc nhiên, tôi được bác sĩ cho xuất viện một tuần lễ. Cũng trong tuần lễ này, mục sư Nên (Neil) giảng tại Bơ-rít-tôn (Bristol). Chúa đã giúp đỡ tôi đúng lúc, tôi biết điều đó. Tôi đi thẳng đến nhà thờ để gặp mục sư Nên (Neil).


“Thưa mục sư, xin ông đuổi nốt những con quỷ còn lại cho tôi. Tất cả! Bây giờ hay chẳng bao giờ nữa, sự tối tăm hay sáng láng, Sa-tan hay Giê-xu, vui mừng hay điên khùng”.


Mục sư Nên (Neil) mời một số con cái Chúa ở lại hợp tác với ông để cầu nguyện. Thì giờ sau đó tôi không còn biết chi nữa cho đến nửa đêm. mục sư Nên (Neil) thuật lại rằng những con quỷ còn lại trong thân thể tôi đã phải ra hết với những tiếng la lớn. Cuộc chiến đấu với quyền lực của sự tối tăm đã xong. Giê-xu là Đấng chiến thắng. Tất cả chúng tôi đều hân hoan. Tôi không tả được sự vui mừng của chính tôi đêm ấy. Từ đêm đầu tiên, khi mục sư đã đuổi bảy con quỷ ra khỏi tôi cho đến nay quả thật là lâu, nhưng nó xứng đáng để chờ đợi, mục sư Nên (Neil) biết điều ấy và tôi cũng biết. Tôi rời nhà thờ sau lời cầu nguyện cảm tạ, lời cảm tạ của một người được tự do. Sau đó tôi trở lại nhà thương, họ chiếu điện trở lại cho tôi, óc tôi chẳng bị hư tí nào, nó rất bình thường. Bác sĩ nói “Đây là một phép lạ”. Ông ấy nói đúng, một phép lạ mà Chúa Giê-xu của tôi đã làm. Giê-xu là Đấng mạnh hơn Sa-tan và tội lỗi. Ngài đã đè bẹp Sa-tan tại đồi Gô-gô-tha và hiện nay Ngài đang sống và vẫn còn làm những điều kỳ diệu trên thế gian này. Ngài vẫn đuổi tà ma, Ngài vẫn chữa bệnh cho kẻ đau thân thể và linh hồn. 
Vâng, Giê-xu là Đấng thực hữu, Giê-xu rất kỳ diệu...


Sự bình an tại Bê-tha-ni


Sau cuộc giải phóng khỏi quyền lực tối tăm tháng 2 năm 1965, tôi không gặp lại mục sư Nên (Neil) gần hai năm vì ông đổi đi xa. Tôi trở vào nằm bệnh viện gần hai tuần lễ rồi họ cho tôi xuất viện. Các nhân viên nhà thương đều ngạc nhiên vì họ thấy tôi thay đổi nhiều. Họ nói: “Trong cô mạnh khẻo hơn, hồng hào hơn, giống như lâu lắm mới gặp lại cô vậy”. Tuy nhiên, tôi chẳng nói gì với họ hết, thời gian sẽ làm cho họ hiểu điều gì đã xảy ra trong đời sống tôi, điều gì đã thay đổi tôi như thế. Những lúc nhàn rỗi, tôi làm công việc vặt như chải đầu cho các bệnh nhân khác, kể chuyện cho họ nghe hay giúp họ những việc mà tự họ không làm được. Còn tôi thì khổ nỗi bây giờ lại nghiện thuốc ngủ. Các bác sĩ nói rằng họ lấy làm tiếc vì cho tôi uống những thuốc ấy. Họ khuyên tôi nên bỏ lần lần, nhưng thưa quý độc giá, nói thì dễ hơn làm. Sau khi ra khỏi nhà thương, tôi cũng cần được săn sóc về trí tuệ và tinh thần. Tôi thấy buồn vì tôi khó thoát ra khỏi những thói xấu của tôi. Khi tôi bắt đầu đi trên đường hẹp của tôi, Sa-tan lại tấn công tôi nhiều hơn. Sự tối tăm dường như một lần nữa lại bao trùm tôi. Thay vì bớt uống thuốc ngủ, tôi uống nhiều hơn trước. Có một điều gì đó thiếu sót trong đời sống tôi. Điều mà tôi rất cần lúc bấy giờ là tình yêu và sự thông cảm. Tôi có cảm tưởng các tín hữu sợ tôi, họ ít khi dám nói chuyện lâu với tôi. Có lẽ cái quá khứ ghê gớm của tôi đã in sâu vào đầu họ, khiến họ không thể tin tưởng tôi được. Tôi phải tập đi, tập nói như một em bé trong Chúa Giê-xu. Một vài người bạn khuyên tôi nên về tĩnh dưỡng ở vùng quê một thời gian. Tôi không vui lắm khi nghe họ đề nghị như vậy. Nhưng rồi tôi nghĩ lại “Sao mình làm cho bạn buồn trong lúc họ cố gắng giúp mình”. Vì thế tôi đồng ý cho họ đưa tôi đến một vùng quê mặc dù tôi không vui chút nào. Tôi tự nghĩ “Có sao đâu, mình đến đó không thích thì cút về chứ có ai làm gì mình đâu”. Họ đưa tôi đến vùng quê ở Gam-linh-gay (Gamlingay), và dù tôi được đón tiếp nồng hậu tôi vẫn không vui mấy. Tôi e ngại về việc sắp xảy ra này. tôi siết tay hai vị chủ nhà của tôi là ông bà mục sư Pac-cơ (Parker).

Trải qua nhiều năm, mục sư Pac-cơ (Parker) đã dâng hiến đời mình cho Chúa Giê-xu và Ngài đã cho ông thấy, hiểu, thông cảm, biết được những nhu cầu của những người cô đơn và buồn bã trên đời này. Với tôi, chỉ có tình yêu mới có thể thu hút tôi lúc này, dù là mục sư, nhưng ông không đưa ra một lời dạy hay là khuyên nhủ tôi. Ông biết rằng đối với người như tôi thì ông cần lắng nghe hơn là dạy bảo. Chính điều này làm tôi ngạc nhiên không ít, vì mỗi tối ngồi lại trò chuyện trong gia đình hay quây quần nơi bàn ăn, tôi chẳng nghe ông dạy tôi điều gì cả, hoặc lời Kinh thánh hay lời khuyên nhủ. Sau mấy ngày sống tại đây, tôi cảm thấy khỏe hơn, tôi xin phép ông bà dắt con Pát-đi (Paddy) đi dạo quanh làng. Một khi ra khỏi nhà, tôi lại đốt từng điếu thuốc, càng đi lòng tôi càng nặng trĩu. Phong cảnh ở đây buồn quá. Tôi tự hỏi tại sao mình dại dột đến nơi như thế này. chẳng có lấy một cái quán nhỏ để ngồi tránh những cập mắt tò mò của mọi người. Tôi quyết định ở đây vài hôm rồi sẽ cáo lỗi ra về. Rồi những ngày kế tiếp, tôi lại dẫn con Pát-đi (Paddy) dạo quanh làng. Chúng tôi trở nên bạn rất thân. Tôi nói với Pát-đi (Paddy) những nỗi lo sợ của tôi. Con chó giương cặp mắt nâu to của nó nhìn tôi như thể thông cảm mọi nỗi niềm đau khổ trong tôi. Ký ức tôi quay về với những ngày còn thơ ấu: tôi cũng thường nói chuyện với con Bét-si (Bessie) như thế.


Tuần lễ thứ nhất trôi qua, tôi bắt đầu yêu thích gia đình này, thái độ tôi cũng thay đổi đối với ông bà Pac-cơ (Parker). Họ chấp nhận tôi như một người trong gia đình, không chút do dự, không một câu hỏi, không lời thắc mắc. Họ có hai con, một trai một gái, cả hai đều ở tuổi thành niên. Tình yêu đã gắn bó gia đình này với nhau, không phải bởi kỷ luật hay tôn giáo mà bởi tất cả họ đều yêu Chúa. Trong họ thật giản dị, ngọt ngào và tươi vui. Đây là lần đầu tiên tôi gặp một gia đình hạnh phúc. Điều này làm tôi để ý, suy nghĩ rồi đến chỗ thích được ở đây với họ. Dầu vậy thỉnh thoảng sự buồn chán lại vây quanh tôi, sự nghi ngờ và sợ hãi bám lấy tôi. Những giấc mơ cứ rình rập tôi mãi. Ban ngày tôi bần thần phản ứng chậm như rùa. Tôi hút thuốc vì là thói quen không bỏ được. Tuy biết cả, nhưng mục sư không nói gì, ông chỉ trình dâng cho Chúa là Đấng làm được mọi sự. Ông đợi thì giờ của Chúa, ông đợi bức tường sẽ đổ xuống. Họ lo lắng cho tôi rất nhiều, nhưng họ rất âm thầm.
Thế rồi một tối kia, thật là tuyệt diệu khi tôi dám mở miệng xin phép ông bà cho tôi được gọi là Ba má. -“Ồ, dĩ nhiên, con, Ba má rất vui lòng, chỉ ao ước chừng đó thôi!”. Rồi cả hai ôm choàng tôi, nước mắt họ tuôn trào. Thật họ khôn khéo và kiên nhẫn với tôi làm sao! Lời khẩn nguyện của họ đã được nhận.


Tôi trở nên thân mật và gần gũi với Ba má hơn. Tôi bắt đầu mở câu chuyện về cuộc đời tôi cho họ. Ba má không thúc đẩy tôi kể cho họ nghe, nhưng bây giờ tôi có thể tin tưởng rằng Ba má làm người có thể giúp đỡ và dạy dỗ tôi. Có lúc uế linh đến quấy phá tôi thì có Ba má giúp tôi chiến thắng nó. Ba má yêu tôi và hiểu tôi. Họ thường thay phiên nhau ngồi cạnh giường để canh giữ tôi ngày cũng như đêm, không dám rời xa tôi. Giê-xu đã thắng Sa-tan, Ngài đem tôi đến tự do thật. Tôi bắt đầu thuởng thức nếp sống Cơ-đốc nhân. Một lần nữa, Giê-xu là Đấng Toàn Thắng.


Sau lần ấy tôi lại được thấy Chúa Giê-xu lần nữa. Đôi tay Ngài đua ra phía tôi, đôi mắt Ngài chan chứa tình yêu, Ngài ôm tôi vào lòng rồi nhỏ nhẹ: “Con thuộc về Ta”. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa rằng chính Giê-xu đã hiện ra với tôi. Ngài không bao giờ bỏ tôi, Ngài dẫn tôi qua mọi thử thách, buồn chán, cho đến một ngày kia tôi sẽ thấy Ngài mặt đối mặt trong cuộc sống vĩnh hằng.


Làng xóm mà lúc trước tôi cho là ẩm thấp, cằn cỗi, bây giờ đối với tôi trở nên hấp dẫn vô cùng. Tôi gọi là làng Bê-tha-ni để nhớ lại một làng nhỏ kia, ở bên ngoài thành Giêrusalem nơi có hai chị em Ma-ry, Ma-thê, và La-xa-rơ ở, nơi Chúa Giê-xu thường lui tính thăm viếng họ. Bây giờ tôi bắt đầu đọc quyển Kinh thánh của tôi. Mọi khi Kinh thánh đối với tôi là một điều gì trừu tượng, khó hiểu khó tin thì bây giờ trở nên rõ ràng và đầy ý nghĩa. Tôi dành hằng giờ để đọc những câu chuyện về Chúa Giê-xu; thế nào Ngài chữa bệnh cho kẻ đau thân thể lẫn linh hồn. Ngài sờ bệnh nhân, Ngài phán dạy quần chúng giống hệt như Ngài làm hôm nay. Ngài đã chẳng sờ đến tôi hoặc chẳng chữa lành bệnh cho tôi hay sao? Tôi thấy rung động, hồi hộp, sung sướng. Kinh thánh trở nên rất sống động. Quyển Thánh ca cô giáo trường Chúa nhật tặng cho tôi mà có lần tôi đã đem vào nhà tù, bây giờ trở nên quý giá cho tôi. Tôi ngồi xuống, đọc và hát những Thánh Ca ngọt ngào.
“Xin nói với tôi câu chuyện về Giê-xu, xin viết trong lòng tôi những lời ca ngọt ngào đó”. Vâng, những lời ca ấy rất có ý nghĩa với tôi. Ôi! Tôi yêu những lời ấy biết bao! Nhìn lại quá khứ, tôi hiểu rằng Giê-xu theo tôi suốt mọi chặng đường. Ngài nhìn tôi với đôi mắt âu yếm từ bao nhiêu năm qua. Ngài thấy tôi lúc tôi còn là cô gái ăn sương ngoài đường. Ngài nhìn thấy tôi lúc tôi còn ngồi trong đền thờ Sa-tan hay lúc tập dượt phù phép nơi bãi hoang. Ngài yêu tôi ngay cả lúc tôi phạm tội, lúc tôi ở dưới bóng ma của sự suy đồi nhất. Thật là tuyệt diệu! Con người như tôi mà Giê-xu vẫn yêu thương!


Tại Bê-tha-ni nầy, Giê-xu đã kéo tôi lại gần Ngài hơn, thay thế sự xấu xa trong lòng tôi bằng sự ngọt dịu của Ngài. Ngài rửa sạch lòng tôi, cất xa khỏi tôi sự đau đớn khốn nạn mà hàng mấy năm qua tôi đã chịu đựng. Tất cả tình yêu Giê-xu tuôn tràn qua căn nhà này. Ngài xua đuổi sự hãi hùng ra khỏi tôi, sáng tạo tôi thành một người mới trong Christ. Tất cả mọi sự đều đổi mới, tất cả, từ thể xác đến tinh thần. Thế giới trước mắt tôi bây giờ thật tuyệt đẹp. Tôi yêu tất cả mọi loài trên thế giới mà Chúa dựng nên, từ những con sư tử hùng dũng đến những con mèo ngoan hiền. Tôi đi dạo trên những cánh đồng hay khu rừng cạnh làng, lòng tôi luôn rộn rã những điệu nhạc ca ngợi Thượng Đế. Tôi nhảy, tôi hát, cảm tạ Giê-xu đã giải thoát tôi và Ngài có một chương trình cho đời sống tôi. Lần đầu tiên tôi biết thuởng thức những hoa dại ven đường hay những đám cỏ xanh bên đồng ruộng. Bầu trời đẹp muôn màu như có họa sĩ tô điểm cho nó. tất cả những cảnh trí này Thượng Đế đã trang bị cho tôi thuởng thức mà tôi dại dột đánh mất bao nhiêu năm qua. Bây giờ tôi nhìn thế giới với đôi mắt khác như có bài Thánh ca mà tôi chẳng bao giờ quên: “Không ai thuởng thức được công trình sáng tạo của Thượng Đế ngoài đôi mắt và tấm lòng Giê-xu ban cho ”. Lúc này bài hát ấy trở nên sống động với tôi biết bao! Những lời này không đủ diễn tả sự vui mừng vô bờ của tôi. Những lời này không đủ nói cho tôi biết Giê-xu đã yêu tôi thế nào, cũng không diễn tả đủ sự hiện diện cao quý của Ngài.


Trong lúc còn nghỉ tại Bê-tha-ni, một ngày kia, tôi thấy sự hiện diện của Chúa rõ hơn hai lần trước. Ngài hiện ra mỗi lúc một gần tôi hơn, Ngài hiện ra bên cạnh tôi. Tôi nghe tiếng phán êm dịu của Ngài thì thầm bên tai tôi “Con là một trinh nữ trong sạch. Trước mặt Ta, con là Ma-ri Ma-đơ-len Mới của Ta”.


Ba đi vào phòng tôi, ông thấy nét rạng rỡ trên khuôn mặt tôi, ông cũng biết có sự hiện diện của Chúa Giê-xu rất rõ. Lúc ấy tôi không còn biết đến sự hiện diện của Ba, tôi chỉ biết sự hiện diện của Chúa và tiếng phán êm ái của Ngài mà thôi. Sau này, Ba thuật lại rằng chưa bao giờ Ba thấy sự hiện diện của Chúa như hôm đó. Tôi thắc mắc với Ba về điều Chúa Giê-xu nói đến tên một người mà tôi chưa bao giờ nghe: “Ma-ri Ma-đơ-len là ai vậy ba?”. Nước mắt từ từ lăn trên má, ông mở Kinh thánh ra chỉ cho tôi xem thể nào Chúa Giê-xu đã đuổi bảy quỷ dữ ra khỏi nàng. Ma-ri Ma-đơ-len cũng là một gái mãi dâm như tôi, một con người từng bị quỷ chiếm hữu như tôi; nhưng từ khi Chúa Giê-xu bước vào đời sống thì nàng được thay đổi hoàn toàn. Tôi chỉ biết khóc và khóc. O! Ma-ri yêu Ngài quá đỗi! Ngài tha thứ tất cả tội lỗi của nàng, Ngài đã đem nàng đến tự do thật. Bây giờ Chúa bảo tôi rằng tôi là Ma-ri Ma-đơ-len-Mới của Ngài. Thật tuyệt diệu đến nỗi không diễn tả được. Tôi giống Ma-ri Ma-đơ-len cũng là một gái mãi dâm, một người bị quỷ chiếm hữu, nhưng bây giờ Ngài đã giải phóng tôi. Giê-xu đã trở nên cần thiết cho tôi từng phút từng giây. “Một trinh nữ trong sạch trước mặt Ta ”, tôi vẫn khóc qua lời này. Ba mở Kinh thánh sách IICo  11:2, Phao-lô viết cho Hội thánh Cô-rinh-tô “...bởi tôi đã gả anh em cho một chồng mà thôi, dâng anh em như trinh nữ trong sạch cho Chúa Cứu Thế”. Tôi sung sướng quá vì Giê-xu đã nói với tôi, vốn là một gái mãi dâm, một tên nghiện thuốc, một mụ phù thủy rằng tôi là “một trinh nữ trong sạch trước mặt Ngài”. Tôi càng yêu Giê-xu hơn. Làm thế nào có thể quên được câu nói đầy lòng vị tha dường ấy! Làm thế nào quên được lời nói ra từ chính miệng Cứu Chúa của tôi!


Chúa Giê-xu vẫn tiếp tục đổ phước của Ngài trên tôi. Mỗi sáng tôi được đầy dẫy Thánh Linh Ngài. Tôi ngợi khen, cảm tạ, phục vụ, yêu thương Ngài. Ngài là Chúa tôi, là Chúa tất cả. tôi càng vui hơn khi đọc đến câu chuyện của Chúa tôi khi Ngài đến bên giếng lúc ban trưa để gặp người đàn bà Sa-ma-ri xấu xa và Ngài đã ban cho nàng nước sống. Tôi càng ngày càng được lớn lên trong ân điển của Chúa Giê-xu. Tôi còn lưu lại làng Bê-tha-ni ít lâu nữa vì tại đây chính Chúa đã dạy dỗ tôi, chăm sóc tôi để hoàn thành mục đích của Ngài qua đời sống tôi. Ngài đã xác nhận tôi là con vị Vua là Đức Chúa Trời tôi. không, tôi không thể quên được làng Bê-tha-ni vì tại đó tình yêu đã thắng cùng sự vui mừng, bình an tràn đầy.


Một tối kia, một đống lửa lớn được đốt lên, tất cả áo đen cùng với thuốc hút, thuốc phiện và nhiều hình tượng, bùa phép khác được đem ra đốt. Một tối thật vui vẻ quanh đống lửa hồng, tôi cảm tạ ngợi khen những gì Giê-xu đã làm cho tôi. đối với độc giả, có lẽ điều này không quan trọng mấy, nhưng với tôi nó thật đầy ý nghĩa. Sa-tan cúi đầu nhục nhã nhưng các thiên thần hòa chung niềm vui với tôi, tôi chắc chắn như vậy.

(Còn nữa)