Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Saturday, August 2, 2014

Cái chết dưới góc nhìn khoa học

Khoa học ngày càng tiến bộ giúp loài người nhận thức chính xác hơn về cái chết, nhưng quá trình này vẫn cách cái xa cái đích cuối cùng.
Mỗi ngày thế giới có trên 150.000 người chết với đủ nguyên nhân. Chết là gì? Thực sự cái chết đáng sợ như thế nào?

Hành trình định nghĩa cái chết

Trong đại từ điển bách khoa Britannica ấn bản đầu tiên (1768), cái chết được định nghĩa đơn giản là “sự chia tách giữa phần hồn và phần xác”. Định nghĩa này cho thấy mối quan hệ giữa cái chết và các yếu tố tâm linh tồn tại cả trong giới học giả.


Nhưng đến ấn bản Britannica số 15 (1973), bài về cái chết đã dài hơn 30 lần, đồng thời cái chết cũng không còn được định nghĩa bằng những ngôn từ ngắn gọn mang tính khẳng định nữa, mà thay vào đó là sự thừa nhận cái chết “chỉ có thể được phỏng đoán” và là “câu đố cuối cùng của các nhà thơ”.

Điều này thể hiện sự gia tăng đáng kể lượng tri thức mà con người đã tìm ra từ giữa thế kỷ 18 đến nay, khi nhân loại đạt được những thành tựu to lớn trong việc nghiên cứu các lĩnh vực khoa học. Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học, đặc biệt là sinh lý học loài người khiến việc định nghĩa cái chết trở nên phức tạp và khó khăn hơn.

Trước đây, để xác định một nguời không còn sống, nguời phương Tây xác định cái chết bằng những cách đơn giản như đặt một chiếc lông vũ ở lỗ mũi, hay đặt một cái gương trước mặt người cần xác định. Nếu như chiếc lông không dịch chuyển, hay cái gương không bị mờ đi, thì người đó được coi như đã chết và tang lễ cũng như việc chôn cất được tiến hành.

Đến khoảng thế kỷ 18, cái chết được xác định qua việc nghe nhịp tim. Tuy nhiên, trong hàng thập kỷ trước khi chiếc ống nghe ra đời, người ta vẫn dựa vào một phương pháp gọi là phép thử Balfour, trong đó người ta đâm một mũi kim xuyên qua da thịt và chạm vào đến tim, sau đó theo dõi cử động của đầu kim để xác định tim còn đập hay không.

Thế nhưng, với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự hoạt động của tim phổi đã không còn được coi là đóng vai trò quyết định đến việc xác định tình trạng sống chết của con người. Với kỹ thuật hô hấp nhân tạo, kích tim,… giới y học đã có thể khiến cho tim phổi hoạt động trở lại sau khi bị ngưng trệ tạm thời. Các thiết bị hỗ trợ sự sống như máy tim phổi nhân tạo thậm chí còn có thể giúp duy trì sự sống kể cả khi tim phổi đã dừng hoạt động. Dù hoạt động tim phổi được duy trì nhưng con người vẫn không bao giờ có thể tỉnh lại được. Đó là trường hợp não bị tổn thương quá nặng.

Năm 1968, ĐH Harvard đã đưa ra một định nghĩa mới về cái chết. Theo định nghĩa này, chết là khi não gặp phải những tổn thương không thể phục hồi được (tình trạng “chết não”), đẩy tình trạng tim phổi ngừng hoạt động thành trạng thái “chết lâm sàng”.
Chưa có khái niệm thuyết phục
Nếu coi linh hồn là cái gì đó khiến cho một người trở nên độc nhất và “mang tính người”, thì định nghĩa của ĐH Havard phần nào đó giống với định nghĩa cái chết trong ấn bản Britannica đầu tiên, nhưng thay vì dùng khái niệm “linh hồn”, định nghĩa mới này cho rằng, một người được xem là đã chết khi ký ức và nhân cách của người đó lưu giữ trong não bị biến mất, mà không thể phục hồi lại được.
Tuy nhiên, dựa theo định nghĩa trên, những trường hợp vỏ não bị thương tổn, con người có thể bị rơi vào tình trạng mất trí nhớ, không thể chữa trị hay phục hồi được, trong khi người đó vẫn có khả năng sống, chỉ ký ức và nhân cách trước đây của họ bị mất vĩnh viễn. Cái chết, khi đó được dành cho “con người trong quá khứ”.Vì vậy, hầu hết các quốc gia phát triển đều ký vào một văn bản pháp lý định nghĩa chết là cái chết của não, bao gồm cả vỏ não và thân não.

Ở người, thân não điều khiển các hoạt động như hô hấp, cử động và nói năng. Theo như định nghĩa này, một người được xem là đã chết về mặt pháp lý nếu não của người đó mất hoàn toàn tất cả các chức năng thần kinh đối với cơ thể.

Thế nhưng, việc căn cứ vào tình free celebrity sex videos trạng của não làm tiêu chuẩn cho việc xác định cái chết cũng không làm định nghĩa về cái chết trở nên đơn giản. Việc xác định xem một bộ não phải bị tổn thương ở mức độ nào mới được tính là đã chết cũng còn nhiều tranh cãi.

Điều này dẫn đến sự chênh lệch trong việc định nghĩa cái chết giữa các cơ quan pháp lý với giới y học và thậm chí, cả trong giới y học với nhau. Thêm vào đó, máy móc hiện đại dù có thể phát hiện được những dấu hiệu nhỏ nhất của sự sống, nhưng việc đo nhầm và đo sót là hoàn toàn có thể xảy ra.

Như vậy, sau hàng nghìn năm, con người vẫn chưa thể có một định nghĩa về cái chết nào thực sự thuyết phục. Thậm chí, có vẻ khoa học càng phát triển, việc đưa ra định nghĩa tổng quát về cái chết càng khó đạt được. Gần như, loài người chỉ mới có thể định nghĩa cái chết trên từng khía cạnh cụ thể.

Câu trả lời cho câu hỏi “bản chất cái chết là gì?” có lẽ phải để lại cho hậu thế tiếp tục khám phá. Trong khi hiện tại, chúng ta vẫn phải bằng lòng với định nghĩa “chết là khi người ta không sống” hay “con người chỉ thực sự chết khi bị người đời quên lãng”.

Giới y học đã tìm tới nguyên nhân cái chết là do tế bào không nhận được lượng oxy cần thiết, kể cả cái chết tự nhiên khi con người bước vào đoạn cuối cuộc đời.

Thiếu oxy là nguyên nhân cái chết

Theo định nghĩa được chấp nhận phổ biến nhất hiện nay, một người được coi là chết khi bộ não của họ không còn hoạt động. Bộ não, cũng giống như mọi bộ phận khác trên cơ thể con người, được kết cấu từ vô số các tế bào. Những tế bào chết đơn lẻ thường được cơ thể sản sinh tế bào mới thay thế. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp thì tế bào não lại chết hàng loạt vì một nguyên nhân đơn giản: thiếu oxy. Khi tất cả các tế bào này chết đi, não ngừng hoạt động.

So với các bộ phận khác thì bộ não con người cần một lượng oxy cực lớn để hoạt động nhưng lại chứa rất ít oxy dự phòng. Điều này dẫn đến việc chỉ cần nguồn cung cấp oxy bị cắt trong một khoảng thời gian ngắn (từ ba đến 7 phút) cũng đủ khiến toàn bộ não ngừng hoạt động và gây ra cái chết.

Thiếu oxy cho não được đánh giá là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái chết và mọi nguyên nhân khác được y học xếp là tiền đề đều dẫn tới nguyên nhân này.

Ví dụ như khi bị ngạt thở, cơ thể người sẽ không thể lấy được oxy từ ngoài vào khiến lượng oxy trong cơ thể sụt giảm nhanh chóng và khiến cho não không có đủ oxy để hoạt động. Hay oxy được chuyển lên não bằng máu, nên các vấn đề liên quan đến hệ tuần hoàn là nhóm nguyên nhân chính dẫn đến việc não bị thiếu oxy. Chẳng hạn khi cơ thể bị mất máu quá nhiều do vết thương, áp suất trong máu sẽ tụt xuống khiến cơ thể không thể đưa máu chứa oxy lên não.

Ngủ nhiều báo hiệu cái chết do lão hóa

Nếu như con người không chịu các tốn thương từ bên ngoài tác động khiến não bị thiếu oxy thì cũng tới một ngày họ ra đi vì tuổi già, đó là lúc cơ thể bị lão hóa. Dấu hiệu thể hiện ra bên ngoài có thể cho ta biết rằng cơ thể một người bắt đầu hoạt động chậm lại.

Đầu tiên là cơ thể người đó sẽ tạo ra ít năng lượng hơn trước kia, do đó người đó sẽ bắt đầu ngủ nhiều hơn để tiết kiệm nguồn năng lượng ít ỏi còn lại. Khi cơ thể không còn đủ khả năng tạo ra lượng năng lượng tối thiểu, người sắp chết có thể mất cảm giác thèm ăn, và sau đó là cảm giác thèm uống. Lúc này việc nuốt trở nên rất khó khăn và đồng thời cổ họng cũng trở nên khô đi, do đó nếu ép người đó ăn hoặc uống có thể dẫn tới mắc nghẹn.

Người trong giai đoạn cuối của cuộc đời sẽ mất dần khả năng kiểm soát hoạt động bài tiết chất thải. Tuy nhiên điều này cũng không phải là một vấn đề quá lớn, vì càng về cuối người đó sẽ ăn uống càng ít đi và các chức năng đường tiêu hóa cũng dần dần ngưng hoạt động. Tại thời điểm này các bác sĩ vẫn còn có thể giám sát được những cảm giác đau mà người đó gặp phải.
Giai đoạn ngay trước khi một người qua đời còn được gọi là giai đoạn hấp hối. Đến lúc này người đó thường bị mất cảm giác phương hướng và không thể cảm thấy thoải mái được nữa. Đồng thời mọi người xung quanh có thể quan sát thấy người sắp chết dường như không thể hít thở được. Hơi thở người đó sẽ trở nên nặng nhọc và xen giữa là các khoảng dừng có vẻ rất đau đớn khổ sở.

Nếu như trong phổi người sắp chết xuất hiện chất dịch bị tích lại thì điều này sẽ làm cho việc hít thở càng khó khăn hơn và tạo ra những âm thanh như người đó đang nấc. Khi các tế bào trong cơ thể bắt đầu mất sự liên kết với nhau, người sắp chết có thể gặp phải hiện tượng co giật hoặt co thắt cơ.

Đến lúc này chúng ta không còn có thể biết được người sắp chết cảm thấy như thế nào nữa. Tuy nhiên những người đã từng trải qua cảm giác cận kề cái chết có vẻ thường cho rằng quá trình này không hề đau đớn. Cảm giác đặc biệt mà họ gặp lúc sắp chết này thường được mô tả bằng một sự thanh thản, mãn nguyện, hay một cảm giác như đang bước từ bóng tối đến ánh sáng phía trước mặt.

Khi các tế bào tim phổi ngừng hoạt động, hoạt động hô hấp và vận chuyển máu cũng dừng lại. Lúc này người sắp chết bước vào giai đoạn chết lâm sàng. Máu chứa oxy không còn được chuyển đến các bộ phận khác trong cơ thể, do đó các bộ phận này phải sử dụng lượng oxy dự trữ tại chỗ. Sau khi sử dụng hết lượng oxy này, các tế bào trên toàn bộ cơ thể sẽ bắt đầu chết đi. Tuy nhiên người sắp chết vẫn có thể được cứu bởi các biện pháp duy trì sự sống nhân tạo.

Bộ não do chứa ít oxy dự trữ nên thường sẽ chết nhanh, thường chỉ trong vòng vài phút sau khi chết lâm sàng. Khi ấy cái chết thực sự đã không thể xoay chuyển được nữa, và cái chết sinh học thực sự đã diễn ra. Tuy vậy, trong khi não ngừng hoạt động, một số bộ phận trên cơ thể người đó có thể sống thêm một thời gian nếu được xử lý đúng cách. Nhờ đó mà y học có thể phẫu thuật ghép các bộ phận trên cơ thể con người.

Theo Đất Việt