Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Thursday, November 1, 2018

Ba-by-lôn

I. Lịch sử.-- Cứ theo lời chép trong bảng đất hoặc bảng đá, thì có thể chia lịch sử Ba-by-lôn làm sáu thời đại lớn:
Một là thời đại các thành: Dân tộc kiều ngụ sớm hơn hết ở Ba-by-lôn có lẽ là giống Cúc (Sáng 10:6). Về sau, có giống Sem tiến vào, nhưng họ đến từ khi nào và phương nào thì đến nay cũng không thể biết được. Cứ như bảng đất đã chép, thì trước khi Ba-by-lôn mở mang thành nước, dân cư đó họp thành từng bộ lạc: Những người ở trong thành ấp, đều nương cậy ở một vách thành để được bền vững. Cho nên mới có tên gọi là thời đại các thành. Đến khi số người và súc vật của các bộ lạc nhiều lên, họ bèn tranh cạnh nhau về bãi chăn nuôi và việc mua bán. Cuối cùng họ xâu xé lẫn nhau! Ba-by-lôn cũng là một trong các thành. Sở dĩ Ba-by-lôn vùng dậy lập được thành nước cũng là vì nó tiêu diệt nhiều bộ lạc khác. Trong các thành có một thành tên gọi BABYLONIA xây bên vịnh Ba-tư, phía tây của sông Ơ-phơ-rát. Cách vài chục hoặc vài trăm cây số về mặt đông, tây và bắc cửa thành, còn có năm cái thành nhỏ. Người ta đào trong đó được bảng đất đủ tài liệu để giúp trong việc khảo cứu. Trong đống hoang tàn ở đó, phát hiện vô số cổ tích. Xem kỹ, thì biết văn hóa họ đã phát triển sớm. Ngoài đó còn có hơn năm, sáu thành nữa, song không biết rõ. Tóm lại, thành Ba-by-lôn dấy lên là từ sau khi các thành nói trên suy sụp, mà dường như cùng một thời với thành Cha-ran như có nói trong Sáng 11:31. Còn việc các thành tranh chiến, cứ coi trong bảng đất, thì có lẽ trải qua nhiều năm cho đến lúc Ba-by-lôn diệt hết các thành mới thôi.

Hai là thời đại mở nước: Khoảng năm 3750 T.C., Ba-by-lôn từ thành bước lên lập làm một nước, người lập nước đó tên là Sargon. Năm 2285 T.C., vua Ê-lam tên là Kudurnanhundi, từ Ê-lam xuống chinh phục được Ba-by-lôn. Có người nói vua đó chính là người hợp sức vớICác để đánh người Sô-đôm và người Gô-mô-rơ mà Sáng 14 đã chép. Những ông vua sau không có tài cai trị đất nước, đến nỗi nước lần lần suy yếu, và trở nên bại vong.
Ba là thời đại biến thiên: Cuối triều đại thứ hai, nước Ba-by-lôn bị giống người Mê-đi đánh bại. Giống nầy nắm quyền, lập triều đại thứ ba. Có người cho rằng đó là người Cúc như nói trong Sáng 10:8. Tên nước là Ba-by-lôn cũng bắt đầu từ đó, sở dĩ đặt tên nước bằng ba chữ đó là vì cùng một nghĩa với chữ Bên, tên thần của thành Ba-bên. Ở thời đại nầy, họ đã đánh thắng nước Ê-lam và thường sai sứ đi dâng lễ vua Ai-cập. Về mặt quốc tế, họ giao tiếp rộng và xa: phía tây đến nước... A-ram, Ai-cập; phía đông đến nước Ấn-độ và nước Trung Hoa. Cùng nhau mở rộng quan hệ, không có gì ngăn trở.
Bốn là thời đại phục hưng: Người giống Sem mất nước không biết trải bao nhiêu năm mới khôi phục được. Đó là triều đại thứ tư nước Ba-by-lôn. Đứng đầu là vua Nê-bu-cát-nết-sa. Ông từng đánh thắng nước Ê-lam, cướp được tượng thần Bên, chiếm được thành Ni-ni-ve. Ông lại xâm chiếm nước A-si-ri, song không được lợi. Lịch sử ca ngợi nước Ba-by-lôn bấy giờ rất giàu mạnh, nhưng bờ cõi nước đó bị hai nước Ê-lam và A-si-ri hạn chế, nên không mở mang được.
Năm là thời đại suy yếu: Khi Ba-by-lôn lập triều đại thứ tám thì nước A-ram quật khởi, đánh lui người A-si-ri và người Ba-by-lôn. Đồng thời người Canh-đê cũng đánh chiếm phía nam nước Ba-by-lôn. Từ đó các nước nhỏ ở phía tây như Phi-li-tin và Y-sơ-ra-ên, v. v., đều nhân đó nổi lên tự lập; Ba-by-lôn không thể ngăn cấm được. Vì lúc đó, Ba-by-lôn đã nổ ra cuộc chiến với A-ram và Canh-đê. Về sau, Ba-by-lôn lại càng suy yếu, đất nước bị xâm lấn dưới thế lực nước A-si-ri. Năm 1270 T.C., tới đời vua A-si-ri là Tukultiadar, Ba-by-lôn hầu như bị A-si-ri diệt mất. Độ 700 năm sau, Ba-by-lôn đứng vào hạng nước nhược tiểu. Mãi đến năm 606 T.C., nước Mê-đi đánh hãm thành Ni-ni-ve của nước A-si-ri, bấy giờ nước Ba-by-lôn mới hơi tự cường được. Năm 605 T.C, Nécho, vua Ai-cập, sắp đánh A-si-ri, đi đến Carchemish, bị Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đón đánh tan vỡ hết! Sau đó, nước Ba-by-lôn ngày một mạnh lên; Nê-bu-cát-nết-sa chiếm lấy rồi tàn phá thành Giê-ru-sa-lem, bắt dân Do-thái làm phu tù. Các nước phía tây nước A-si-ri cũng lần lần thuộc về Ba-by-lôn cả. Tiếc rằng trong vòng 44 năm, Nê-bu-cát-nết-sa trị vì phần nhiều còn thiếu sót! Cứ như bảng đất đã chép, thì ông chỉ thích việc kiến trúc mà thôi. Lên ngôi từ năm 605 T.C., đến năm 562 T.C., Nê-bu-cát-nết-sa băng hà; con ông là Ê-vinh-Mê-rô-đắc lên ngôi, bấy giờ là năm 561 T.C., Ông lấy ân huệ xử với vua Do-thái là Giê-hô-gia-kim (IICác 25:27; Giê 52:31). Về sau, ông bị anh vợ giết chết và cướp mất ngôi.
Sáu là thời đại nghiêng đổ: Khoảng năm 556 T.C., các thầy tế lễ lập Nérigerissar lên làm vua (Giê 39:3); ông chỉ chú trọng về kiến trúc. Đến năm 539 T.C., vua nước Ba-tư là Si-ru, đánh phá Ba-by-lôn, bắt bỏ tù vua Nérigerissar, và nước Ba-by-lôn thuộc về nước Ba-tư. Si-ru, sau khi đã lên ngôi vua Ba-by-lôn, theo đúng hết thảy lễ nghi, chế độ và cứ giữ phong tục của Ba-by-lôn, rất được lòng nhân dân cả nước. Còn thế lực người giống Sem thì từ đó tiêu mòn đến hết!
II. Văn tự.-- Nước Ba-by-lôn có văn tự rất sớm. Ban đầu họ lấy cọng cỏ khắc trên bảng đất thành những chữ có hình ba góc; sau chuyển thành lối viết chữ hình nhọn. Cách đặt chữ của họ trước hết theo phép hội ý và tượng hình, ví dụ như vẽ một cái đầu trâu hoặc một con trâu để tỏ ý có sức khỏe. Rồi dần dần theo đó đặt ra những chữ có ý nghĩa là quyền lực. Về hài thanh thì ghép hai chữ lại, để chuyển sang âm khác mà thành ra nghĩa khác. Lại có phép giả tá, như vẽ một ngôi sao để chỉ về trời, cũng có thể chỉ về những cái ở cao và ở trên. Ban đầu văn tự Ba-by-lôn chỉ có độ năm trăm chữ: song lần lần về sau, theo cách ghép chữ mà đặt thêm mãi ra, nhờ đó đã có thể ứng dụng rộng rãi được.
Vào thế kỷ thứ mười sáu T.C., các quan cai trị ở Palestine có dùng ngôn ngữ và văn tự để giao thiệp với triều đình Ai-cập. Lối hành văn cổ xưa, cứ xét ở bảng đất, thỉnh thoảng có chỗ rất khó hiểu nghĩa! Hơn một nửa của việc ghi chép bằng lối văn cổ xưa ấy là việc thờ lạy tà thần và lịch sử các thần ấy. Họ cũng chép cả phong tục và việc nhà luôn với hết thảy luật pháp ở thời bấy giờ. Cũng có giảng luận về những kiểu cách trí, thiên văn và nói những truyện lành, dữ, họa, phước, khuyên người bỏ dữ làm lành. Có những câu như: "Phàm những kẻ miệng tử tế, lòng độc ác, cân dối, gian xảo, lìa bỏ họ hàng, lừa dối bạn hữu, gièm chê người khác chắc chắn bị thần trừng phạt! Ta không nên làm theo họ". Và: "Chớ nhút nhát mà không làm lành! Vì người ta ai cũng có thể làm điều lành được". Hoặc: "Phàm việc người phụ mình thì được; chớ mình quyết đừng phụ người!". Những lời khuyên lành như vậy thấy trong bảng đất rất nhiều.
Cũng có chỗ viết về thuốc, nhưng cách chữa thông thường thì chỉ là những lối phù phép bùa ếm thôi. Còn về số học, cứ coi trong bảng đất, thì bấy giờ đã có các phép tính về phương số, lập phương, thể tích, diện tích và đo lường. Ngay như giờ giấc của các nước ngày nay cũng do Ba-by-lôn đặt ra trước, một nhưng phút có bằng sáu mươi giây hay không thì chưa chắc là do Ba-by-lôn đặt ra.
III. Tôn giáo.-- Tín ngưỡng của nhân dân Ba-by-lôn rất đa dạng: hoặc thờ lạy mặt trời, hoặc mặt trăng, hoặc kim tinh, v. v..., người trong thành thì thờ lạy thần Bên. Ngoài ra, còn có nhiều thần khác, tùy theo tín ngưỡng của nhân dân; song mỗi người chỉ thờ một thần, hoặc tự mình chọn lấy, hoặc theo truyền thống gia đình, chớ không thờ hai thần. Từ khi Ba-by-lôn chiếm các thành, gồm lại làm một nước, lòng tín ngưỡng của nhân dân lần lần hướng vào vị thần mà trong kinh đô thờ phượng.
Họ có thói quen rất tin vào đồng bóng: họ thường cho rằng trong khoảng không có nhiều ma quỉ, chỉ có phù phép bùa ếm mới trừ khử được. Thành thử bọn đồng bóng và tướng số được mọi người coi trọng hơn thầy tế lễ và thầy thuốc. Từ xưa đã có tục lệ như thế này: gia trưởng của mỗi một nhà phải làm thầy tế lễ, cứ như vậy mà truyền từ đời nọ sang đời kia. Về sau, các miếu có lập thầy tế lễ, hoặc những người có chân tư pháp, thư lại và thầy thuốc đều hay kiêm làm chức đó. Trong khi các thành chưa bị gồm lại làm một, thì quyền thế thầy tế lễ nghiễm nhiên ngang với ông vua. Đó vì thầy tế lễ là người đại biểu của vua; còn chức vua, theo con mắt người Ba-by-lôn, thì là người làm việc thay cho thần. Vì thế, người được tôn lên đứng đầu một nước thì được nắm hết quyền binh bị, quyền tư pháp và quyền xây cất cung miếu. Nhân dân cả nước, nhờ đó đều yêu mến và sẵn sàng ủng hộ vua.
IV. Thành Ba-by-lôn.-- Theo nguyên văn tiếng Hê-bơ-rơ, nghĩa là cửa thần. Thành nầy ở về phía đông sông Ơ-phơ-rát. Kinh Thánh có mấy chỗ nói đến thành Ba-by-lôn: Sáng 10:10; Ês 23:13. Cái nền cũ của thành đã nói kỹ ở chữ Ba-bên. Thành nầy cao và rộng lắm (Giê 51:44-58). Một nhà sử học sống vào năm 40 T.C., có nói: chu vi thành được độ hơn 60 cây số; còn diện tích thì được độ 150 cây số vuông. Xung quanh thành có hào; cửa thành làm bằng đồng, mỗi bên thành có 25 cái, tổng cộng là một trăm cái. Cửa nọ với cửa kia có đường thông với nhau, thẳng như mũi tên, vuông như ô bàn cờ. Trong thành có vườn hoa treo trên khoảng không. Người ta đặt máy dẫn nước để tưới hoa trên vườn đó.
Trong đời vua Nê-bu-cát-nết-sa, thành nầy rất thạnh vượng: đây là nơi tụ tập những thương gia lớn của các nước, của cải dư dật. Vì thế nó được gọi là "thành của người buôn bán" (Êxê 17:4). Tiên tri kêu nó là "thành mà cả thiên hạ đều ngợi khen" (Giê 51:41), là "sự hoa mỹ của lòng kiêu ngạo người Canh-đê" (Ês 13:19), là "chủ mẫu của các nước" (Ês 47:5), là "con gái dịu dàng yểu điệu", là "đờn bà sung sướng yên ổn", (Ês 47:1, 8).
Dân cư càng xa hoa giàu có, thì những sự tội lỗi dâm dục cũng sanh ra càng nhiều; nên tiên tri thường nghiêm trách nó. Và những lời tiên tri về Ba-by-lôn đã được ứng nghiệm (Ês 13:1-; 14:1-23; 21:1-10;46:1, 2; 47:1-3; Giê 25:12; 50:24, 46, 51). Đến năm 539 T.C., vua Si-ru khơi nước sông Ơ-phơ-rát, rồi từ đó xông vào thành mà chiếm lấy thành. Vua Đa-ri-út phá hủy cửa thành, hạ thấp vách cửa thành xuống. Về sau tháp Bên cũng bị vua Phe-rơ-sơ hủy phá! Đến đời A-léc-xan-đơ, thành Ba-by-lôn hầu như là một bãi hoang vu! Về sau, chỗ đó chỉ còn là một xứ nhỏ hẹp mà người Do-thái dời đến ở mà thôi (IIPhi 5:13). Đến nay nó vẫn hoang vu, khắp nơi đều có thú dữ ở. Người ta đã đào được những bảng đất có khắc chữ cổ để giúp làm tài liệu khảo cứu.
Tiến sĩ Scofield viết về "gánh nặng về Ba-by-lôn" (Ês 13:1) như sau:
Gánh nặng (Tiếng Hê-bơ-rơ là Massa, một thứ nặng nề) là lời tiên tri Chúa phán về Ba-by-lôn, A-si-ri, Giê-ru-sa-lem, v, v... Lời đó là "nặng nề" vì có sự thạnh nộ của Chúa, đấng tiên tri lấy làm đau đớn mà nói ra.
Tùy theo những câu trước và sau, Ba-by-lôn trong câu 1 không hẳn chỉ về chính thành Ba-by-lôn. Ta nên chú ý đến nghĩa bóng khi dùng đến tên này. Ba-by-lôn là tên tiếng Hy-lạp; nhưng trong tiếng Hê-bơ-rơ của Cựu ước, thì chỉ có tên là Ba-bên, nghĩa là lộn xộn, và chính tên nầy hay làm hình bóng chỉ về ý nghĩa đó.
1. Như vậy, trong các sách tiên tri khi không dùng tên nầy để chỉ về chính thành đó, thì có nghĩa là chỉ về "sự lộn xộn" của cả xã hội trong thế gian nầy, là một thế gian đã phục dưới quyền của dân ngoại bang quản trị cả thế giới (xem lời ghi chú của Tiến sĩ Scofield về Lu 21:24; Khải 16:14, thì thấy "Kỳ các dân ngoại" ấy bắt đầu từ khi Nê-bu-cát-nết-sa đem dân Do-thái đi làm phu tù (IISử 36:1-21), và kể từ khi ấy Giê-ru-sa-lem ở dưới quyền dân ngoại; và kỳ các dân ngoại sẽ hết, "khi có một hòn đá chẳng phải bởi tay đục ra" (Đa-ni-ên 2:34, 35, 44) đến (nghĩa là Chúa lấy vinh hiển mà trở lại) (Khải 19:11, 21) để hủy diệt sự quản trị của dân ngoại cả thế giới. Vậy Giê-ru-sa-lem sẽ cứ ở dưới quyền quản trị của dân ngoại cho đến khi Chúa trở lại. (Lu 21:24).
Ês 13:4 viết về những sự lộn xộn mà Chúa thấy khi các dân ngoại tranh chiến với nhau. Ý định mà Chúa tỏ ra trong Ês 11 là: dân Y-sơ-ra-ên sẽ ở trong quê hương mình, là xứ thánh, và từ nơi trung tâm điểm đó Chúa sẽ quản trị cả thế gian và làm nguồn ban phước hạnh; và các dân ngoại cũng giao thông với dân Y-sơ-ra-ên mà được phước. Ngoài ý định đó, về phần chính trị, chỉ là "Ba-bên" lộn xộn.
2. Trong sách Khải 14:8-11; 16:29 tỏ ra quyền quản trị cả thế gian của các dân ngoại quan hệ với Ha-ma-ghê-đôn (Khải 16:14; 19:21). Song trong Khải 17:1 thì "con đại dâm phụ" là Ba-by-lôn tôn giáo, hình bóng về Hội Thánh bội đạo, bị các dân ngoại, là Ba-by-lôn chính trị (Khải 17:16) ở dưới quyền con thú và tiên tri giả (Đa-ni-ên 7:8; Khải 17:17; 19:20), diệt đi để chỉ có con thú đó được thờ lạy (IITê 2:3, 4:1- Khải 13:15).
Trong sách Ê-sai, Ba-by-lôn chính trị được tỏ ra, trước là chỉ về chính thành còn lại lúc đó, và sau cũng làm hình bóng về kỳ các dân ngoại. Trong sách Khải Huyền, cả hai Ba-by-lôn chính trị và Ba-by-lôn tôn giáo được tỏ ra vì tại đó cả hai ở dưới quyền ức hiếp của con thú. Ba-by-lôn tôn giáo bị phá bởi Ba-by-lôn chính trị (Khải 17:16); rồi Ba-by-lôn chính trị lại bị hủy phá bởi sự Chúa hiện đến một cách khải hoàn (Khải 19:21) trong cơn chiến tranh rất lớn tại Ha-ma-ghê-đôn.
3. Thành Ba-by-lôn thật chắc không được xây lại, bởi vì trong Ês 13:19-22  Giê 51:24-26, 62-64 nói rõ lắm. Ba-by-lôn chính trị chỉ về chánh giới của các dân ngoại theo nghĩa bóng (xem lời ghi chú của Tiến sĩ Scofield ở mục "thế giới", Giăng 7:7; Khải 13:18). Song trong Khải 18:10, 16, 18 dường như chắc chắn nhận Ba-by-lôn "thành lớn" có buôn bán to và sung sướng là "Ba-by-lôn" nơi trung tâm điểm của tôn giáo, nghĩa là La-mã.
Ta có thể thấy thêm những hình bóng trong Kinh Thánh, như xứ Ai-cập chỉ về thế gian; thành Ba-by-lôn chỉ về thế giới chính trị và tôn giáo trở nên hư hỏng; và thành Ni-ni-ve chỉ về sự kiêu ngạo sung sướng của thế gian.
Ês 13:12-16 chép tiên tri chỉ về những sự đoán phạt chép trong sách Khải 6:1--13:1-; Ês 13:17-22 chép tiên tri chỉ về thời gần và xa. Những câu ấy chỉ về thành Ba-by-lôn thật, lúc đó vẫn còn, sau sẽ bị hủy phá; và lại chép khi thành ấy bị phá rồi, thì không được xây lại nữa (Giê 51:61-64). Hết thảy lời tiên tri nầy quả đã được ứng nghiệm rồi. Song những lời tiên tri chỉ bóng về Ba-by-lôn chính trị và Ba-by-lôn tôn giáo trong thời kỳ con thú, tỏ ra thành Ba-by-lôn thật đã bị hủy phá rồi, điều này muốn nói về sự hủy phá lớn hơn mà Ba-by-lôn tôn giáo và chánh trị phải chịu.
st