Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Wednesday, October 17, 2012

KHOA HỌC VÀ KINH THÁNH


Sứ đồ Phao-lô xác chứng “Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn” (IITi  3:16). Và Sứ đồ Phierơ cũng đã khẳng định “Thánh linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời” (IIPhi  1:21). Thánh kinh mang bản chất nhân tính bao gồm chữ viết, văn phạm, văn mạch, văn hoá, văn chương, lý luận, hoàn cảnh lịch sử, địa lý, v. v… Ngoài ra Kinh thánh còn mang bản chất thần tánh như vô ngộ, có thẩm quyền, hiệp nhất và huyền nhiệm. Vậy giữa khoa học và Kinh thánh có hoà hợp nhau không?

Sự hoà hợp giữa khoa học và Kinh thánh là gì? Mat  12:40 đề cập đến Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Một câu chuyện mà nhiều người nhận thấy khó tin, vậy mà Chúa Giê-su đã tin nhận câu chuyện ấy. Trước đây người ta nghĩ rằng chẳng có con cá nào to đủ để nuốt trọn một con người, tuy nhiên ngày nay người ta biết rằng loại cá nhà táng, loại cá mập trắng lớn và cá voi có thể làm điều đó. Các sinh vật biển nầy có thói quen mửa ra những thứ trong bụng nó trước khi chết. 



Có những lời ký thuật, rất hết sức xác thực, về những con người trong thời buổi hiện đại đã bị nuốt trọn bởi những loài cá lớn nầy và sau đó được giải cứu mà vẫn sống. Một thuỷ thủ người Anh bị ngã qua mạng tàu, bị con cá nhà táng nuốt chửng, đã sống một ngày rưỡi trong bụng con cá lớn nầy. Con cá bị săn đuổi, bị đánh bắt và người đàn ông nầy được lấy ra khỏi bụng cá, bất tỉnh nhưng vẫn còn sống. Câu chuyện nầy nói lên sự hoà hợp giữa khoa học và Kinh thánh.


A. THIÊN VĂN HỌC: 


Trái đất hình tròn và không có vật chống đỡ: Ê-sai đã mô tả trái đất hình tròn “The circle of the earth: Vòng trái đất”. Trong tiếng Hê-bơ-rơ chữ “Khug” được dịch là vòng tròn, hoặc hình cầu, giống như quả cầu, là điều chính xác không ai chối cải được. 
Dân Hê-bơ-rơ, dân tộc cổ xưa, duy nhất tin rằng trái đất hình tròn chứ không phải hình dẹp. Cách đây 2700 năm Ê-sai đã được Đức thánh linh cảm thúc và viết lên quả đất hình tròn: “Ngài Đấng ngự trên vòng trái đất” (Es 40:22). Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ các em bé học lớp ba cũng biết xác chứng quả đất hình tròn. 



Niềm tin về trái đất lơ lửng giữa khoảng không, không được chống đở bởi một vật gì đã không được khám phá ra, cho đến thế kỷ thứ 15 mới được đề cập đến. Tuy nhiên giới khoa học chưa chấp nhận, mãi cho đến thế kỷ thứ 17 mới nhận ra lẽ thật. Trong lúc đó Giop 26:7 mô tả “… Ngài treo trái đất trong khoảng không không” (He hangs the earth on nothing). 
Các ngôi sao vô số không thể đếm được: Từ ngàn năm xưa có những con người yêu mến thiên văn học, họ tìm cách đếm những ngôi sao:
- Hipparchus sống vào 150 T. C. đã đếm không tới 3000 ngôi sao. 
- Ptolemy sống 150 S. C. đã đếm được 1058 ngôi sao. 
- Kepler sống vào 1571-1630 đã đếm được 1005 ngôi sao. 
- Galileo sống vào 1609 đã phát minh ra viễn vọng kính và khám phá ra rằng các ngôi sao không thể đếm được. 



Ngày nay chúng ta biết rằng mặt trời là một trong số 100 tỉ ngôi sao trong dãy Ngân hà (Ngân hà: Dải sáng màu trắng nhờ vắt ngang bầu trời, do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quang, Tự điển VN), và các thiên hà khác (Thiên hà: tập hợp rất nhiều ngôi sao, hàng trăm tỉ, trong đó Hệ Mặt Trời chỉ là một bộ phận rất nhỏ) cũng có số lượng ngôi sao tương đương như vậy. Lời Đức Chúa Trời qua các tiên tri đã nói rất đúng: “Người ta không thể đếm được cơ binh trên trời, và lường cát dưới biển” (Gie Gr 33:22). Đức Chúa Trời hứa chúc phước cho Áp-ra-ham, một con người lại là một người già yếu, sanh ra muôn vàn con cháu, đông như sao trên trời, như cát bãi biển, không thể đếm được (HeDt 11:12).


B. KHÍ TƯỢNG HỌC 


Vòng hơi nước: Cách đây gần 4000 năm, Kinh thánh đã nói về vòng hơi nước tức sự vận hành của nước bốc hơi, ngưng tụ, thành mây, thành mưa hoặc thành tuyết rơi xuống đất, để rồi lại bốc hơi. Dầu vậy các nhà khoa học vẫn chưa hiểu đầy đủ quá trình nầy, cho mãi đến thế kỷ 19, kiến thức khoa học gia tăng họ mới thấu hiểu được sự vận hành của vòng hơi nước. Trong lúc đó, Giop  36:27-28 đã xác chứng: “Vì Ngài thâu hấp các giọt nước: Rồi từ sa-mù (mist) giọt nước ấy bèn hoá ra mưa. Đám mây đổ mưa ấy ra, nó từ giọt sa xuống rất nhiều trên loài người”. Những giọt mưa nầy rơi rớt xuống mọi nơi để rồi mọi sông đều đổ vào biển, song không hề làm cho đầy biển; nơi mà sông thường chảy vào, nó lại chảy về đó nữa (Truyen 1:7). 
Sự tuần hoàn của không khí: Luồng chuyển vận của gió và không khí không được các nhà khoa học khám phá. Cách đây 100 năm, các nhà khoa học mới sử dụng những quả bóng thời tiết ở độ cao để khám phá ra rằng hơi ấm bắt đầu ở tại xích đạo, tràn xuống hai cực, nó lạnh đi và rơi xuống bề mặt của trái đất, là nơi một lần nữa nó lại tràn về xích đạo để bắt đầu lại chu trình nầy. Sự kiện nầy đã được Gióp và vua Sa-lô-môn đề cập đến:



Giop 28:25 “Chúa định hướng cho các luồng gió và đặt biên giới cho các đại dương” (Theo bản diễn ý). Một bản khác dịch “Ngài định sức nặng cho gió”. Gióp nói tiếp “Chúa sai bão tố từ phương nam, và lạnh giá đến từ phương bắc” (37:9 Bản diễn ý). 
Sa-lô-môn cũng đồng một quan điểm như Gióp “Mặt trời mọc, mặt trời lặn, nó lật đật trở về nơi nó mọc. Gió thổi về hướng nam, kế xây qua hướng bắc; nó xây đi vần lại không ngừng, rồi trở về vòng cũ nó” (Truyen 1:5-6). Tiến sĩ Lê Hoàng Phu dịch “Mặt trời mọc, lặn, xoay vần không dứt. Gió thổi nam, thổi bắc, quanh đi vòng lại”. 
Chớp: Đề cập đến vấn đề nầy Gióp đã nói nhiều năm về trước: “Ai đào kinh cho nước mưa chảy, phóng đường cho chớp nhoáng của sấm sét” (Giop 38:25). Hoặc “Ai đào kinh cho nước lụt, và chỉ đường cho sấm chớp” (Diễn ý). 



Vào năm 1930, các máy chụp hình với tốc độ cao đã chụp ánh sáng của chớp. Khi chiếu lại trên màn ảnh với tốc độ chậm, các nhà khoa học đã ghi nhận rằng: Trước khi chớp phát ra với tiếng sấm kèm theo, đã có một đường phóng. Đường phóng nầy là việc thăm dò ban đầu của sức mạnh năng lượng điện đến mặt đất. Khi tia phóng đến gần mặt đất nó hút một chuỗi điện tích từ mặt đất về phía nó. Tia phóng và chuỗi điện tích gặp nhau, có một con đường chuẩn bị cho chớp xuất hiện, lập tức ánh chớp trở thành một tia sáng thấy rõ. 
Điều nầy cho chúng ta thấy từ tia chớp, vòng hơi nước hay sự tuần hoàn của không khí đều được Thiên Chúa dự phòng, lo liệu, tính toán để mọi sự kiện xẩy ra trong trật tự vì Đức Chúa Trời chúng ta là Đức Chúa Trời trật tự.


C. SINH VẬT HỌC 


Tất cả các động vật tái sản sinh đều tuỳ theo loại của chúng: Từ nhiều thế kỷ nay người ta tin rằng một loài động vật có thể giao phối với động vật khác để cho ra đời một loài động mới. Điều nầy đã được chứng minh là không thể được, vì mỗi loài đều có số lượng nhiểm sắc thể khác biệt và cụ thể. Chúng là những tế bào tái sản sinh chính nó để cho ra đời con cháu. Hai loài động vật cùng một loài có thể cho ra đời loài thứ ba. Ví như con ngựa và con lừa có thể cho ra một con la, nhưng khi điều nầy xẩy ra thì thế hệ con cái không có khả năng sinh sản. Chúng không tạo được một loài mới. Một lần nữa Kinh thánh lại đúng như lời Chúa xác chứng: “… Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh các loài sống tuỳ theo loại, tức súc vật, côn trùng, và thú rừng, đều tuỳ theo loại; thì có như vậy. Đức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tuỳ theo loại, súc vật tuỳ theo loại, và các côn trùng trên đất tuỳ theo loại …” (Sang 1:21-25). 



Tại sao không được kết hôn với những người bà con gần?: Loài người có hơn 300 gien khiếm khuyết gây ra những khuyết tật như: điếc, mù loà, mù màu, dư tứ chi, tứ chi ngắn, hay chảy máu, bạch tạng, tiểu đường v. v… Khi những người bà con gần kết hôn lẫn lộn, những gien khuyết tật nầy có khả năng truyền lại cho con cháu nhiều hơn. Một nan đề đặt ra con cháu của Cain và Sết, những người nầy đã kết hôn với chị em ruột của họ thì sao? Có thể vào thời kỳ mớ khai thiên lập địa dân số chưa đông, các gien khiếm khuyết nầy chưa xuất hiện trong loài người. 
Một bộ tộc tại Phi châu đã phải chịu một sự biến dạng khiến các ngón chân của họ chỉ còn lại hai ngón lớn trong hình chữ “V” như bàn chân đà điểu. Khuyết tật nầy là kết quả của việc giao phối giữa những người bà con gần với nhau. Những người đã tái định cư và kết hôn với những người không có mối quan hệ bà con gần thì sinh ra con cháu bình thường. 



Mọi xác thịt đều không giống nhau: Từ xưa cho mãi đến thế kỷ 20, các nhà khoa học đều tin rằng tất cả những loài xác thịt hầu như đều giống nhau. Mãi đến năm 1930, kính hiển vi điện tử được phát minh, các nhà khoa học mới nhận biết các tế bào đều hoàn toàn khác nhau về cấu trúc. Ngày nay ngành khoa học hiện đại đã nhận ra bốn sự phân chia của các loài xác thịt: con người, thú vật, loài cá và chim chóc. Sự phân chia nầy chính xác như Phao-lô đã nhận định “Mọi xác thịt chẳng phải là đồng một xác thịt; nhưng xác thịt loài người khác, xác thịt loài thú khác, loài chim khác, loài cá khác” (ICo1Cr 15:39). Một lần nữa lời của Đức Chúa Trời chính xác, khiến các nhà khoa học chống đối đành bịt miệng. 
**********



TRÁI ĐẤT ĐƯỢC BAO BỌC

Theo người Do thái có ba tầng trời đều được gọi là Thiên đàng. Bầu trời bao bọc bởi khí quyển nơi đó có sinh vật sống, người Do thái gọi đó là tầng trời thứ nhất. Khoảng không gian có các loại tinh tú ngoài tầng khí quyển, đó là tầng trời thứ hai. Tầng trời thứ ba được Phao-lô mô tả là Ba-ra-đi, ở đó ông nghe những lời không cho phép nói ra (IICo 12:2-4). 


Học thuyết về trái đất được bao bọc cho biết rằng trước đây đã từng có một bức màn hơi nước dày 8 km được giăng trên bầu khí quyển ở độ cao từ 32 đến 40 km. Người ta tin rằng bức màn đã giải thích cho nhiều sự việc được biết là đã tồn tại trên trái đất trước khi có cơn Đại hồng thuỷ.

I. BẰNG CHỨNG KINH THÁNH VỀ BỨC MÀN HƠI NƯỚC 

· Có phải bầu trời ở giữa nước và nước không? 
Dựa theo Sáng thế ký 1: 6-8 Đức Chúa Trời đã tạo dựng bầu trời từ giữa nước. Thượng đế phán: “Phải có khoảng không phân cách nước với nước”. Vậy Thượng đế tạo ra khoảng không, phân cách nước dưới khoảng không và nước trên khoảng không. Thượng đế gọi khoảng không là trời (BDY). 



· Trước cơn Đại hồng thuỷ có bao giờ mưa trên mặt đất không? 
Sáng thế ký 2: 5-6 xác chứng “Vả, lúc đó, chưa có một cây nhỏ nào mọc ngoài đồng, và cũng chưa có một ngọn cỏ nào mọc ngoài ruộng, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chưa có cho mưa xuống trên mặt đất, và cũng chẳng có một người nào cày cấy đất nữa. Song có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất”. 
Theo khoa học ngày nay cho biết mưa là do gió và nước bốc hơi gây ra. Gió là do sự thay đổi nhiệt độ tạo thành. Nhiệt độ thay đổi là do các tia mặt trời chiếu thẳng vào bề mặt trái đất tạo thành. 



Các tia mặt trời được lọc bởi bức màn nước vì vậy có một nhiệt độ tương đối không thay đổi trên khắp thế giới, chỉ có những cơn gió nhẹ mà chẳng bao giờ có những trận bão. Trái đất đã nhận được hơi ấm ban sự sống, không phải từ mưa, mà do lớp sương đọng lại mỗi buổi tối trên các loài thực vật, do hơi ẩm trong việc làm lạnh không khí, như lời Kinh thánh phán. 



· Dưới bức màn hơi nước nầy, chúng ta có thấy cầu vồng, mặt trời, và mặt trăng không? 
Cầu vồng gây ra bởi tác dụng của lăng kính khi các tia mặt trời bị gấp khúc xạ và phản xạ khi chúng đi qua các giọt nước nhỏ, bao gồm đủ 7 màu chính, xuất hiện trên bầu trời, đối diện với mặt trời hay mặt trăng. Như vậy sẽ không có cầu vồng trước khi nước lụt, bởi vì không có những tia mặt trời trực tiếp và không có những tia nước nhỏ để chiếu qua. Cái mống hay cầu vồng là dấu chỉ về giao ước bất diệt của Đức Chúa Trời với con dân Ngài và muôn loài trên đất, sẽ chẳng có nước lụt huỷ diệt mọi sinh vật nữa (Sang 9:13-17). Nô-ê chẳng hề thấy một cái mống nào suốt 600 năm ông sống trên mặt đất. 



Từ khi bức màn hơi nước không còn nữa, sau nước lụt, lần đầu tiên Kinh thánh đề cập đến mặt trời lặn. Ngày ấy Đức Giê-hô-va lập giao ước cùng Áp-ra-ham: Ta cho dòng dõi ngươi xứ nầy, từ sông Ê-díp-tô cho đến sông lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát (15:17-18). Bức màn hơi nước đã được vén khỏi mắt muôn loài vạn vật, con dân Ngài. Con dân Ngài và muôn vật có thể thấy được mặt trời, các ngôi sao, mùa gieo, mùa gặt, mùa hè, mùa đông, đêm và ngày. Từ đó, họ quên đi Đấng tạo hoá, bội nghịch cùng Ngài và bắt đầu thờ lạy các thiên thể trên trời cao sau khi có trận lụt. 
Những di tích văn hoá, các nhà khảo cổ đào bới được đã chứng minh sự kiện nầy. Ngoài ra qua tinh thần xây cất một thành phố vĩ đại Ba-bên với tháp cao ngất trời xanh. Đức Chúa Trời không hài lòng với thái độ bội nghịch, kiêu ngạo, Ngài đã xáo trộn tiếng nói cả thế giới, và phân tán họ khắp mặt đất. 
· Con người được ăn thịt khi nào? 
Ban đầu trái đất trống không, ngày thứ nhất Thượng đế tạo dựng nên sự sáng, ngày thứ hai bầu trời, ngày thứ ba cỏ và cây cối, ngày thứ tư hai vị sao lớn và các ngôi sao, ngày thứ năm các loài cá và chim trời, ngày thứ sáu làm nên loài người. Ngày thứ bảy, Thượng đế làm xong các công việc Ngài làm và nghỉ mọi công việc sáng tạo. Thế thì sau khi con người được làm nên con người được ăn những thức ăn gì để sống sinh hoạt và tồn tại? Thượng đế truyền rằng: “Ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi” (1:29-30). Tức là Thượng đế ban cho loài người thực vật để làm lương thực. 
Sau cơn Đại hồng thuỷ, Nô-ê dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê và con trai người “Hãy sinh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy trên mặt đất”. … Phàm vật chi hành động và có sự sống thì dùng làm đồ ăn cho các ngươi. Ta cho mọi vật đó như Ta đã cho thứ cỏ xanh (9:2-3). Có lẽ khí hậu khắc nghiệt, và những trận mưa, bão đã khiến con người tiêu hao sức lực, con người cần thêm sức lực mà thịt là là nguồn cung cấp sức mạnh trong môi trường mới. 



Cơ Đốc giáo bị người đời bác bỏ về mặt triết học, chứ không bao giờ chối bỏ Cơ Đốc giáo về mặt luân lý, đạo đức, khoa học và niềm tin. Tất cả những tuyên bố ngay cả những tuyên bố mang tính cách khoa học của Kinh thánh đều hoàn toàn chính xác cho khoa học tiên tiến ngày nay. Người đời nghĩ ra thuyết tiến hoá vì họ đã chối bỏ Đức Chúa Trời. Thuyết tiến hoá cho rằng tất cả động vật và thực vật đều dần dần phát triển qua hàng triệu năm từ những hình thức đơn giản qua quá trình chọn lọc và biến đổi tự nhiên. Nói đến khoa học là nói đến sự khảo sát thế giới hiện tại bằng cách sử dụng giác quan của con người. Khoa học phải quan sát và lập đi lập lại nhiều lần. Thuyết tiến hóa không phải là một ngành khoa học theo định nghĩa nầy mà là một ngành của triết học suy luận. 



Vậy, ngay cả những nhà khoa học, bác học, chính trị gia, hoàng đế có đầu óc vĩ đại thay đổi toàn bộ cục diện nhân loại đã tin vào Kinh thánh, tin vào Đức Chúa Trời. Nhà bác học Bacon đã xác nhận: “Khoa học nông cạn đưa con người xa tôn giáo, khoa học uyên thâm đem con người đến gần tôn giáo”. Còn các bạn thì sao? Hãy đến với lời Chúa qua câu gốc: “Vả, hể các lời lành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã phán được ứng nghiệm cho các ngươi thế nào, thì Đức Giê-hô-va cũng sẽ làm ứng nghiệm những lời hăm doạ của Ngài trên các ngươi thể ấy …” (Gios Gs 23:15).