Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Tuesday, October 16, 2012

SAMUEL MORRIS - HOÀNG TỬ PHI CHÂU --3


PHẦN 3
LÃNH TỤ SINH VIÊN
MỘT VỊ MỤC SƯ ĐƯỢC THIÊN ĐÀNG PHONG CHỨC
SỨ ĐỒ Phao lô thường nói rằng khác với sứ đồ khác, giấy phép giảng đạo của ông do Thiên Thượng cấp, chứ không phải do loài người. Samuel Morris cũng đúng như vậy.
Chúa nhật tiếp theo ngày cậu tới Wayne, Morris hỏi rằng có nhà thờ cho người da đen không, người ta bảo có. Thế là cậu đi tìm, nhưng nơi này xa trường quá, đến nỗi khi cậu tới đã trễ. Phần đầu giờ nhóm vừa xong, ông mục sư đứng trên tòa giảng, đã đọc Kinh Thánh, sắp giảng. Morris bước thẳng vào nhà thờ lên tòa giảng và bước lại bục giảng.

Ông Mục sư đó nghiêm lắm, nên thái độ của Morris làm ông khó chịu. Morris nói: tôi là Samuel Morris, tôi mới từ Phi Châu tới. Tôi có một sứ điệp cho quí vị ở đây. Ông Mục sư bắt đầu muốn từ chối, nhưng khi nhìn thấy gương mặt rạng rỡ và ánh mắt sáng ngời của Morris, ông cảm thấy rằng chắc phải có sứ điệp thật. Ông hỏi Morris có soạn bài giảng không, vì nghĩ rằng cậu là một mục sư, Morris nói: “Không, nhưng tôi có một sứ điệp.”
Ông mục sư mời cậu lên tòa giảng. Ông mục sư vừa mới ngồi xuống gần chỗ bàn tiền dâng, thì nghe có tiếng lao xao, ông nhìn lên thấy cả hội chúng quỳ xuống, khóc lóc cầu nguyện và la lên vì vui sướng. Morris đứng ở tòa giảng, không giảng nhưng cầu nguyện, nói chuyện với Cha của cậu. Về sau, mục sư này kể lại rằng: tôi không nghe cậu ấy nói gì. Tôi tự nhiên thấy có sức mạnh bắt mình muốn cầu nguyện. Tôi nói gì, Morris nói gì tôi cũng quên, nhưng tôi nhớ rằng linh hồn tôi bốc cháy, chưa bao giờ có như vậy. Ánh sáng dẫn Morris ra khỏi xiềng xích ở Phi Châu chắc chắn đã rọi vào lòng anh em ở Wayne. Hội Thánh này chưa bao giờ được Thánh Linh viếng thăm như vậy.
Buổi nhóm kéo dài mãi quá giờ như thường lệ. Khi mọi người ra về, họ nhận thức rằng có một mặc khải sống động của Thánh Linh hôm ấy. Morris nói ngôn ngữ loài người. Cậu đã cầu xin Cha của họ trên trời từ nơi sâu thẳm linh hồn mình. Lời cầu thay của cậu hoàn toàn do đức tin như một con trẻ, Thánh Linh đã đáp lời. Ai nấy về nhà tâm hồn vui thỏa
Mới một ngày mà Morris vô danh đã thành một tên ai cũng nhắc đến ở Wayne. Báo chí ở đó đăng tải cuộc phục hưng lớn của Samuel Morris. Hôm Chúa nhật đó trong nhà thờ Phi Châu ở đường Eart Wayne. Các báo tôn giáo sao lại và bình luận về sự mặc khải thuộc linh kỳ diệu này. Tất cả tỉnh Wayne đều biết tên anh sinh viên Phi Châu mới vào đại học Taylor mặc dù chưa đến một tuần lể.
MORRIS CỨU MỘT ĐẠI HỌC
SAMUEL Morris chăm học lắm. Mỗi chữ mỗi ý nghĩa, mỗi nguyên lý dạy cho cậu là ăn sâu ngay vào óc cậu. Những câu nói tế nhị và giọng nói líu lo của các giáo sư đã biến thành cuộc đàm thoại riêng của cậu. Tuy nhiên, trong tư tưởng của cậu vẫn thuần tuý Châu Phi. Cách ghép chữ thành câu của cậu ai cũng ngạc nhiên. Các câu cậu nói ngắn nhưng mỗi chữ đều có ý nghĩa. Cậu không hề nói chơi. Cuộc đời của cậu là những tư tưởng cao cả và những mục đích cao thượng.
Nhưng bao giờ Morris cũng coi Thần lẽ thật Thiên Thượng là giáo sư chính của mình. Có khi gặp một bài toán khó giải cậu nói thì thầm rằng: “Lạy Chúa, giúp con.” Cậu dành nhiều thì giờ nói chuyện với Cha hơn là với các giáo sư. Thánh Linh đưa Đức Chúa Cha lại gần cậu như bất cứ một giáo sư nào trên đất và khiến Ngài cũng như một vị giáo sư.
Nhiều người từ xa đến gặp Morris và nói chuyện với cậu nhưng cậu không có thì giờ để chỉ nói chuyện bá vơ. Sau khi chào hỏi thông lệ cậu đưa Kinh Thánh cho người khách, mở đoạn mà cậu muốn học ra và yêu cầu người khách đọc lớn tiếng. Morris đã được người ta đọc cho nghe cả Kinh Thánh theo kiểu đó.
Trong Đại học có một thanh niên vô thần và ưa khích bác. Anh ta không muốn để yên cho ai muốn tin gì thì tin. Anh ta thuộc long lập luận của phái vô thần và không bỏ những dịp cãi lý với các sinh viên tín ngưỡng. Thường rất khó gặp Morris. Cậu không tiếp ai cả khi bận cầu nguyện. Tuy nhiên anh vô thần này thuyết phục được một sinh viên đưa đến phòng Morris để giới thiệu anh ta. Chàng vô thần ưa cải lắm và tưởng rằng dễ thắng chàng da đen kém học thức này. Như thường lệ, Morris đưa cho anh ta cuốn Kinh Thánh và mời đọc một đoạn. Anh ta quăng Kinh Thánh lên bàn và nói: “Tôi không đọc cuốn sách đó nữa, vì toàn chuyện tình, chuyện chiến tranh và nhiều chuyện đánh cá. Tôi không tin một lời nào trong cuốn này.”
Samuel Morris chưa bao ghờ nói chuyện với một kẻ vô thần vì ngay những người Phi Châu man rợ cũng tin thần linh. Cậu ngồi yên lặng và đưa mắt nhìn kẻ vô thần cho đến khi anh này dịu xuống. Lúc ấy Morris đứng dậy nói: “Anh ơi, Cha anh nói với anh mà anh không tin sao? Anh ruột của anh nói mà anh cũng không tin sao? Mặt trời chiếu sáng mà anh không tin mặt trời sao? Đức Chúa Trời là Cha của anh. Đấng Christ là Anh ruột của anh, còn Thánh Linh là Mặt trời của anh.”
Rồi đặt tay lên vai người khách, cậu nói : “Anh quỳ xuống, tôi cầu nguyện cho anh.” Một linh hồn đang lâm nguy; Thánh Linh dạy Morris nói lên tiếng nói của tâm hồn người anh em này. Anh vô thần chống cự cho đến lúc sắp ra về thì cảm thấy sự cáo trách của Thánh Linh trong lòng. Cuối khóa học, anh ta rời trường trở thành một người tín đồ cầu nguyện và hầu việc Chúa. Về sau anh chàng trước kia nhạo báng đạo Chúa đã trở thành Giám mục.
Morris làm nóng chảy toàn trường Đại học, từ hiệu trưởng cho đến người sinh viên mới nhất năm thứ nhất, bằng cách cho họ thấy sự giản dị và quyền năng của Thánh Linh đã có thể ban các ơn lãnh đạo cho một con người thấp hèn nhất. Cả trường được nâng lên một bình diện cao hơn, sinh viên không phải chỉ là những người được cứu, nhưng được tăng cường phần thuộc linh để cứu kẻ khác.
Những sự hành hạ mà Morris phải chịu ở Phi Châu khi bị làm con tin, những khổ cực khi ở trên con tàu lang thang đã làm yếu thể xác mỏng manh của cậu rất nhiều. Thêm vào đó, khí hậu Bắc Mỹ với những mùa đông dài, lạnh lẽo là một khung cảnh khác thường đối với một người được sinh trưởng ở vùng nhiệt đới. Tuy vậy Morris vẫn đi nhóm đều đặng các buổi nhóm trừ ra mùa đông kinh khủng năm 1892-1893.
Mặc dù Morris không chống cự nổi cái lạnh mà cậu phải chịu, cậu vẫn theo học các giờ học đầy đủ. Nhưng sức cậu mòn dần. Cậu bị chứng thủy thũng và không thể giấu nổi rằng bị đau nặng. Khi bác sĩ Stemen khám xong thì cho đưa cậu vào bệnh viện Joseph. Dầu cậu là con của ông viện trưởng đi nữa, cũng không thể được chăm sóc được chu đáo và tử tế hơn. Nhiều người thương yêu cậu và những người cậu đem phước hạnh đến cho, đã tới thăm cậu. Họ đem đến cho cậu những gì họ chứng minh lòng yêu quí của họ. Tình yêu cậu cho họ và tình yêu cậu nhận được thật khó đo được.
Lúc đầu Sammy không biết tại sao mình lại đau. Cậu nói: “Mùa đông năm ngoái tai tôi bị tê cứng, tôi đau lắm. Tôi cầu xin Cha tôi và tôi hết đau ngay. Bây giờ tôi không khỏi bệnh, tôi chẳng hiểu được điều ấy.”
Nhưng một hôm kia, các sinh viên đến thăm cậu Morris vui vẻ nói lại với họ rằng bây giờ cậu hiểu rõ rồi. Cậu nói: “Tôi rất mừng. Tôi đã thấy các thiên sứ, chẳng bao lâu nữa họ sẽ đến rước tôi. Ánh sáng mà Cha tôi ở trên trời sai đến để cứu tôi khi tôi bị treo trên thập tự xưa ở Phi Châu, có một mục đích. Bây giờ tôi đã hoàn thành mục đích đó. Công việc của tôi trên đất này đã xong.”
Tấn Sĩ Reade hỏi cậu về công việc lớn lao cậu định làm giữa đồng bào Phi Châu thì cậu đáp: Đó không phải việc của tôi. Đó là việc của Đấng Christ. Ngài phải chọn những cộng tác viên của Ngài. Những người khác có thể làm việc tốt hơn tôi.
Bác sĩ Stemen ở ngay bên kia đường, ngang bệnh viện. Gần trưa ngày 12 tháng 5, bác sĩ đang cắt cỏ ngoài sân thì nghe có tiếng nói: “Bác sĩ Stemen ơi, đừng làm việc mệt quá nhá.” Ông nhìn lại thì thấy Morris ngó qua cửa sổ trong phòng bệnh viện. Hai người vẫy tay chào nhau. Morris rời cửa sổ ngã mình trên ghế còn bác sĩ tiếp tục làm việc.
Vài phút sau cô Helen trong bệnh viện đến báo cho bác sĩ Stemen và gia đình ông rằng Morris dường như hết hy vọng. khi bác sĩ Stemen đến nơi, cậu hoàng Phi Châu còn ngồi yên trên ghế, nhưng đã chết.
Mặt cậu mang một vẻ vui thỏa trang trọng như khi cậu hát bài Thánh Ca cậu ưa nhất:
Vui thú thế gian mau tàn
Jêsus thuộc tôi
Dây vấn vương xưa ly đoạn
Chúa thuộc tôi rồi
Dồng vắng vườn hoang âm u
Không chốn nghỉ yên trọn đời
Duy Chúa ban ơn hộ phù
Chúa thuộc tôi rồi.
(Thánh ca số 298- câu I)
Cậu đã đi gặp Cha cậu trên trời, lặng lẽ y như đi chào mừng một trong những giáo sư yêu dấu của cậu vậy. Vị “Thiên thần đen như mun” đã nhập vào đoàn thiên thần của mọi thời đại và mọi chủng tộc.
oOo
Lớp cao đẳng ở đại học Taylor năm 1928 đã lo dựng đài kỷ niệm trên một ngọn đồi mà mỗi mùa xuân, mùa hạ đầy những hoa tươi đẹp nhất. Tấm bia có ghi những chữ:
Samuel Morris 1872 – 1893
Hoàng Tử KABOO
Người Tây Phi Châu
***
Cơ đốc nhân Huyền diệu Trứ danh,
Sứ đồ có Đức tin Giản dị
Tiêu biểu cho một đời sống đầy Thánh Linh.
Sau cơn buồn thảm và kinh ngạc đầu tiên đã qua, ý nghĩa thật của cuộc đời và sứ mạng của Samuel Morris bắt đầu chiếu diệu trong đầu óc các giáo sư, sinh viên và bạn bè. Mục đích và chương trình của Đức Chúa Trời dành cho cậu khôn ngoan hơn và to lớn hơn các chương trình của họ. Tấn sĩ đã nói lên điều này khi ông viết:
“Samuel Morris là một sứ giả thánh của Chúa sai đến đại học Taylor. Cậu nghĩ rằng cậu đến đây để sửa soạn mình cho sứ mạng của cậu đối với dân tộc cậu, nhưng cậu đã đến để chuẩn bị cho đại học đường Taylor sứ mạng của viện đại học này đối với cả thế giới. Nhờ cậu mà đại học này thấy được một khải tượng về nhu cầu của cả thế giới. Nhu cầu ấy không còn riêng của địa phương nào mà của cả thế giới.”
Trong buổi cầu nguyện sau khi Morris chết, một thanh niên đã đứng lên nói: “Bây giờ tôi cảm thấy tôi phải đi Phi Châu thay chỗ Morris, và tôi cầu nguyện rằng vì công tác của anh rơi lại trên tôi thế nào thì xin chiếc áo choàng đức tin của Morris cũng xuống trên tôi thế ấy.” Ngay lúc ấy cũng có hai người noi gương xung phong đi Phi Châu. Những người này là các bậc tiền phong cho nhiều người noi theo nữa’
Nhiều năm sau, khi Morris tới Nữu Ước, vị thuyền trưởng của con tàu lang thang đó đến Nữu Ước tìm Stephen Merritt. Khi ông này nói Morris đã đi đến nơi vinh quang trước 21 tuổi, thuyền trưởng xúc động đến nỗi đứng lặng thinh hồi lâu.
Sau đó ông ta nói rằng hầu hết thủy thủ vẫn còn làm với ông và ai ai cũng nóng lòng nghe tin người anh hùng và vị mục sư nhỏ bé kia. Ông bảo rằng Morris đã cầu nguyện lần đầu tiên mà ông được nghe trên con tàu của ông. Cậu đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ cho những thủy thủ chai lì, cộc cằn của ông. Thủy thủ bây giờ như anh em một nhà. Những gì Morris khuyên bảo đã hữu ích dài lâu.
Đối với riêng Mục Sư Stephen Merritt, thì ảnh hưỡng của cậu bé da đen không nói nổi Anh văn kia đã kéo dài suốt cuộc sống của ông. Cậu chỉ ở trong nhà ông một tuần lễ tại Nữu Ước, thế mà đức tin mạnh mẽ của “vị thiên thần đen như mun” này tiếp tục làm phép lạ suốt đời Merritt. Sau khi Morris đi, ông Merritt đi đến các bệnh viện thần kinh cầu nguyện cho nhiều người và họ được bình phục, ông cũng đi thăm các nhà thương người bệnh và cầu nguyện cho họ được chữa lành. Trước khi lìa cõi đời, Stephen Merritt đã đem đến Thập Tự giá mười ngàn người.
Thật khó tưởng tượng nỗi có Đại học Mỹ nào riêng cho sinh viên da trắng lại lấy tên một người da đen không một xu dính túi để đặt cho cơ sở Đại học của mình. Thế mà Đại học Taylor làm như thế. Vì ảnh hưởng lâu bền của Morris mà người ta đã công nhận tòa Nhà Kỷ niệm Đức tin Samuel Morris ngày nay là một đặc điểm tự nhiên và tất nhiên trong khu Đại học.
Điều này không phải chỉ biểu lộ tinh thần tôn kính ở Đại học. Cả thành phố Fort Warne, qua cuộc họp của hội đồng thành phố đã dự trù rằng một chương trình xây cất của thành phố dưới quyền giới chức gia cư Mỹ quốc sẽ mang tên là Sammy Morris. Như thế, ảnh hưởng của Morris còn tiếp tục chứng minh là một nguồn phấn khởi và phước hạnh cho những người kém may mắn trong nhiều năm tới.
Ngày nay nhờ ảnh hưởng trường tồn cuộc đời đầy dẫy quyền năng Thánh Linh của Samuel Morris, hàng triệu tín hữu đã cảm thấy, và còn hàng triệu ngưới khác nữa cũng sẽ cảm thấy lời thách thức sinh động của đức tin bất tử của Morris. Cuộc sống thành công ấy, và cái chết còn thành công hơn như thế, tiên bảo cho chúng ta sự vĩnh cữu bất tử mà Đức Chúa Jêsus đã tuyên bố: “Người nào vì cớ ta mà mất sự sống mình thì sẽ được ở lại.”
Các nhà nhờ có thể đóng, cửa các tín điều có thể qua đi. Đạo lý có thể đổi thay. Nhưng niềm tin đơn thành của con người phiêu lưu này không dựa trên các thứ ấy. Cậu đưa mọi người mặt đối mặt lần nữa với Đấng Christ đang sống là Đấng mà biết Ngài có nghĩa là yêu mến, và bước theo Ngài. Đó là bí quyết của thuật lãnh đạo không có tận cùng.
Mặc dù ai nghĩ gì về các phép la khác trong sách này, phép lạ chính trong cuộc đời Samuel Morris là phép lạ có thể được tái diễn trong đời sống mỗi đọc giả. Quí vị không cần bị treo trên cây tréo có hình thập tự giá ở Phi Châu để được ánh sáng thiên thượng tràn ngập linh hồn, để cho quí vị năng quyền phụng sự Chúa. Quí vị chỉ cần đến đối diện với Chúa với chính con người vô lực của mình vì chưa có Đức Chúa Trời để nhận ân điển và quyền năng của Ngài.
Chưa bao giờ người ta dễ công nhận con người cần đến Đức Chúa Trời như ngày nay, khi mà năng quyền hay tội ác thắng thế khắp các nước, sự thất bại của mọi phương thuốc loài người đem ra chữa bệnh cho thế giới đã phải nhường chỗ cho sự thay đổi biến cải trong bản chất của chính con người.
Thuật lãnh đạo thắng lợi của Samuel Morris là gương sáng cho mọi người già cũng như trẻ. Tuy nhiên tuổi thanh xuân của cậu, đức tin can trường và những công tác bất tử của cậu khiến cho tiểu sử này thành một cuốn chỉ nam cho thanh niên đang chuẩn bị giữ các vai trò lãnh đạo cho thế giới ngày nay.
Một đặc điểm quan trọng nhất của đời sống Morris là tất cả ảnh hưởng thuộc linh kỳ lạ của cậu thực hiện trong các công việc tầm thường ngoài đời. Cậu tìm thì giờ và dịp tiện đem các phước hạnh quí nhất đến cho người xung quanh mình trong khi cậu cực nhọc trong đồn điền, làm thợ sơn, làm bồi dưới tàu và về sau trong khi phải học thêm cho kịp các bạn sinh viên khác có nhiều giờ rảnh rỗi. Bất cứ bạn trẻ nào cũng có những cơ hội như vậy để phục vụ Chúa trong các cuộc tiếp xúc hàng ngày.
Hơn nữa cậu đặt để tấm lòng sốt sắng đạo đức vào công việc làm mỗi ngày, như khi chùi phòng cho thuyền trưởng, cũng như khi cậu nói lời Chúa ra. Thế giới cần có nhiều tín đồ thực tế như vậy hơn.
Những thời đại nóng cháy này là lò lửa để vàng của thuật lãnh đạo chân chính được thử rèn, luyện lọc và nổi bật lên một cách đắc thắng, công việc truyền Tin lành khắp thế giới và nền hòa bình của thế giới chờ đợi những nhà lãnh đạo mới được trang bị đầy tràn quyền năng ngự trị của Đức Chúa Trời nhờ sự dâng hiến hoàn toàn và đức tin trọn vẹn của một Samuel Morris. Những Samuel Morris ngày nay đâu cả? Đây là lúc dành cho những người của phép lạ mới.....
--- HẾT---
LÀM SAO CHO ĐƯỢC CHỊU BÁP TÊM BẰNG ĐỨC THÁNH LINH?
Đức Thánh Linh làm những gì trong và qua Sammy Morris, thì Ngài cũng mong làm trong và qua mỗi người đã tiếp nhận Đức Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa và Chúa của mình. Ngài chỉ chờ đợi chúng ta dâng cả thân thể, hồn và tâm linh cho Ngài kiểm soát trọn vẹn. Nếu mỗi tín hữu Việt Nam đầy dẫy Đức Thánh Linh, thì chẳng bao lâu, mười triệu linh hồn sẽ ăn năn tội lỗi và quay về với Đấng Christ.
Những ai chưa tin Đấng Christ thì chết trong tội lỗi. Nếu chúng ta chưa đầy dẫy Đức Thánh Linh mà làm chứng về Cứu Chúa cho họ, thì họ không hiểu được những lời ta nói. Chỉ khi nào nghe Đức Thánh Linh phán qua môi miệng chúng ta, họ mới có thể tin Đấng Christ và “vượt khỏi sự chết mà đến sự sống.” (Giăng 5:24). Nếu tôi đầy dẫy Đức Thánh Linh, những người tôi làm chứng về Chúa cho sẽ nhờ môi giới của tôi mà được cứu rỗi. Nếu tôi không sẵn lòng trả giá để đầy dẫy Đức Thánh Linh luôn, thì tôi phải chịu trách nhiệm về mọi linh hồn có thể nhờ tôi mà được cứu rỗi, nhưng lại không được cứu rỗi.
Bây giờ chúng ta đứng trước câu hỏi thực tế này: Chúng ta làm thể nào để được đầy dẫy Đức Thánh Linh? Trong Kinh Thánh có nêu rõ con đường gồm sáu bước đơn giản mà ai cũng đi được nếu muốn. Quả thật, bất cứ người nào đi sáu bước này, đều sẽ được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Cả sáu bước đã nêu rõ ở Sứ đồ 2:38 và mấy câu khác. Trước hết, ta hãy xem Sứ đồ 2:38 – “Hãy ăn năn (nguyên văn), ai nấy phải nhơn Danh Đức Chúa Jesus chịu báp têm, để được tha tội mình, rồi sẽ lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh.”
1. Ta thấy hai bước đầu trong danh từ ăn năn. “Ăn năn” nghĩa là gì? Nghĩa là thay đổi tâm tưởng của mình. Thay đổi tâm tưởng của mình đối với gì? Đối với Đức Chúa Trời, Đấng Christ và tội lỗi. Đổi từ thái độ chối bỏ Đấng Christ ra thái độ tiếp nhận Đấng Christ. Hãy tiếp nhận Đức Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa và Chúa của chính mình. Đó là bước thứ nhất đi đến báp têm bằng Đức Thánh Linh.
2. Bước thứ hai cũng thấy trong danh từ ăn năn. Thay đổi tâm tưởng đối với Đức Chúa Jesus là ý nghĩ đầu tiên và trọng đại; song cũng còn phải thay đổi từ thái độ ham thích tội lỗi hoặc buông mình theo tội lỗi ra thái độ ghét và từ bỏ tội lỗi. Đó là bước thứ hai, tức là từ bỏ hết thảy tội lỗi.
3. Ta thấy bước thứ ba ở trong cùng một câu này: “Ai nấy phải nhơn Danh Đức Chúa Jesus chịu báp têm, để được tha tội mình.” Chỉ nhờ đức tin nơi Huyết Đấng Christ đổ ra mới được tẩy sạch tội lỗi; song sự đầy dẫy Đức Thánh Linh chẳng dành cho người nào âm thầm tin theo Đấng Christ; trái lại, dành cho người nào âm thầm tin theo Đấng Christ; trái lại, dành cho người nào công khai làm tín đồ Đấng Christ nhờ chịu báp têm bằng nước.
4. Rõ ràng lắm, bước thứ tư gồm trong câu chúng ta vừa mới kê cứu (Sứ đồ 2:38), nhưng được nêu rõ hơn ở Sứ đồ 5:32 – “Đức Thánh Linh mà Đức Chúa Trời đã ban cho kẻ vâng lời Ngài.” Bước thứ tư là vâng lời.
Vâng lời nghĩa là gì? Không phải chỉ có nghĩa là làm một vài điều, hoặc nhiều điều, hoặc hầu hết mọi điều mà Đức Chúa Trời bảo chúng ta làm; song có nghĩa là hoàn toàn thuận phục ý chỉ Đức Chúa Trời. Ấy nghĩa là tôi đến cùng Đức Chúa Trời mà thưa rằng: “Lạy Cha Thiên thượng, tôi đây luôn với mọi sự tôi có. Ngài đã trả giá chuộc tôi, và tôi nhìn nhận Ngài có quyền sở hữu tuyệt đối trên tôi. Xin Ngài nhận lấy tôi luôn với mọi sự tôi có, và xin sử dụng tôi tùy theo thánh ý của Ngài. Tôi tuyệt đối dâng mình cho Ngài luôn với mọi sự mình có một cách vô điều kiện và vĩnh viễn, để Ngài kiểm soát và sử dụng.”
5. Bước thứ năm thấy ở Luca 11:13 – “Vậy nếu các ngươi là người xấu, còn biết cho con cái mình vật tốt thay, huống chi Cha các ngươi ở trên trời, lại chẳng ban Đức Thánh Linh cho người xin Ngài!” “XIN” trong câu này là lời xin phát xuất từ ước muốn thành thật và nhiệt thành. Nếu ai còn nghĩa rằng mình không chịu báp têm bằng Đức Thánh Linh cũng chẳng sao, thì ai đó sẽ chẳng bao giờ được chịu báp têm ấy. Như vậy, bước thứ năm là XIN – xin dứt khoát một ơn phước dứt khoát.
Sách Êsai 44:3 có rất nhiều ý nghĩa: “Ta sẽ rót nước trên kẻ khác… Ta sẽ đổ Thần Ta trên dòng dõi ngươi.” Khát nghĩa là gì? Khi người ta khát, thì chỉ có một tiếng kêu: “Nước! Nước! Nước!” Mỗi lỗ chân lông trong thân thể dường như nói được và kêu lên rằng: “Nước!” Cũng một thể ấy, khi lòng chúng ta kêu lên: “Đức Thánh Linh! Đức Thánh Linh! Đức Thánh Linh!” thì Đức Chúa Trời sẽ đổ mưa lụt trên đất khô, nghĩa là đổ Thần Ngài trên chúng ta. Thế thì chúng ta phải nóng nảy mong ước chịu báp têm bằng Đức Thánh Linh.
6. Bước thứ sáu thấy ở Mác 11:24 – “Mọi điều các ngươi xin trong lúc cầu nguyện, hãy tin đã (nhận) được, tất điều đó sẽ ban cho các ngươi.” Phải chiếm hữu các lời hứa của Đức Chúa Trời bởi đức tin. Có rất nhiều người chỉ vì không tin mà bị mất cái phước đầy dẫy Đức Thánh Linh này.
Ngay khi cầu xin Đức Chúa Trời một ơn phước nào hợp theo ý chỉ Ngài, thì chúng ta có đặc quyền biết rằng lời cầu xin của mình được Ngài nghe, và ơn phước mà mình xin Ngài là thuộc về mình rồi.
Nếu chúng ta đã nhận Đức Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa và làm Chúa, đã công khai xưng nhận như vậy do chịu báp têm bằng nước; nếu đã đem ý chí và bổn ngã hoàn toàn đầu phục Đức Chúa Trời; nếu thành thật mong ước tôn vinh một mình Đức Chúa Trời và được chịu báp têm bằng Đức Thánh Linh; - nếu đã làm trọn các điều kiện nầy thì bất cứ độc giả nào cũng có quyền cầu xin Đức Chúa Trời làm báp têm cho mình bằng Đức Thánh Linh. Khi đã dâng lên lời cầu xin như vậy rồi, thì có thể nói rằng: “Lời cầu xin nầy đã được nhậm; tôi có ơn phước mà tôi đã xin; tôi đã chịu báp têm bằng Đức Thánh Linh.” Đoạn, có quyền đứng dậy và đi làm công việc dắt đem nhiều linh hồn quí báu đến cùng Đấng Christ, vì biết chắc chắn rằng trong công việc này, mình sẽ có quyền năng của Đức Thánh Linh. 
Hết