Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Friday, October 5, 2012

Người Đàn Bà Hạnh Phúc --11


Giỏ Đầy Thứ Mười Một: Người Đàn Bà Gieo Giống


Bánh Ma-na 
Dâng Sinh Tế Sống 
Sống Lại Từ Cõi Chết

Bánh Ma-na
Buổi sáng mùa thu bầu trời trên công viên Griffith ở Los Angeles đặc biệt sáng và xanh. Bầu trời xanh lơ chiếu sáng giống như mái nhà của ngôi thánh đường có tấm lợp trắng phủ trên nền bằng cỏ xanh khi người ta cùng nhau tụ họp để thờ phượng Đức Chúa Trời trong ngày thánh nhật. 
Mãi về sau mỗi tín hữu mới nhận biết rằng đó là ý Chúa và kế hoạch kỳ diệu của Ngài. Họ không thể nào hiểu được tại sao họ phải rời những nhà thờ mà họ đã từng phục vụ khá lâu.



Tuy nhiên, đó chính là kế hoạch ẩn giấu của Ngài về một Hội Thánh Truyền Giáo Thế Giới phải được khai sinh qua quá trình của sự đau khổ và giải cưú. Ngợi khen và vinh hiển qui thuộc về Ngài! Buổi nhóm đầu tiên thờ phượng Ngài ở công viên thật là một hình ảnh đẹp.
Có một bài thơ mà tôi yêu thích phát xuất từ đáy lòng tôi:

"Như đóa hoa bị gai đâm và gió thổi,
Nỡ nụ cười tươi và lan tỏa hương thơm theo gió.
Đức Chúa Trời đón nhận con và khen ngợi con.
Phước hạnh của sự phục sinh sẽ đến sau thập tự giá.
Khi hạt giống chết đi, cây lúa mới có kết qủa.
Hãy chiến thắng khó khăn và không hề lui bước.
Chúa sẽ ban cho con mão triều đắc thắng."


Mỗi khi tôi cảm thấy cô đơn, Ngài nhắc lại bài thơ nầy và khích lệ tôi, "Đừng bỏ cuộc. Đừng chán nãn, đừng để kẻ thù thắng trận." Ngài thường phán, "Đây là con đường dẫn đến Thiên đàng."
Tuần thứ nhì ngày 15 tháng Mười Một năm 1992, chúng tôi tổ chức lễ tạ ơn cho Ngài tại nhà Chấp sự Lee. Đó là một phòng cao như đã được mô tả trong sách Tin Lành Mác. Trong khi mấy tín hữu ngợi khen và thờ phượng Ngài thì Đức Thánh Linh Ngài giáng xuống và đầy dẫy căn phòng. Chúng tôi tất cả đều đồng thanh cầu nguyện cảm tạ về tất cả ân điển và sự bảo vệ Ngài đã tiếp trợ chúng tôi. 
Ngay giữa buổi cầu nguyện, Ngài phán với tôi bằng một giọng nói nghe rất rõ ràng trong lỗ tai, "Hãy xây dựng thân thể Ta." Tôi lắc đầu dường như tôi nghe lộn. Nhưng Ngài đã nói lại bằng giọng nói rõ ràng, "Hãy xây dựng thân thể Ta và Ta sẽ lãnh đạo dân của Ta." Lời Ngài rất kiên định. Làm sao tôi có thể bất tuân mà nói không được với Ngài?
Thế là một nhóm nhỏ người đã hiệp lại và xây dựng Hội Thánh của Ngài. Chúa Giê-xu Christ đã kêu gọi mười hai sứ đồ và lập họ làm nền cho Tin Lành trên toàn thế giới. Sau buổi lễ tôi đã can đảm nói lại tiếng phán của Chúa cho các tín hữu nghe. Tất cả đều nói A-men và dâng vinh hiển cho Ngài.
Sau bữa ăn trưa, chúng tôi họp lại và thảo luận về cái tên cho Hội Thánh mới thành lập. Lúc đó, Ngài lại phán với tôi lần nữa bằng một giọng nói rõ ràng trong lỗ tai tôi, "Bánh Ma-na." Tôi vô cùng kinh ngạc. Cái tên nghe đẹp lạ lùng!
Mặc dầu sống trên đất, chúng ta đang thuộc về Thiên đàng. Chúng ta đang ăn thức ăn thiên đàng vĩnh cửu. Chúng ta là những con người của lớp sương mai trên mặt đất giống như bánh ma-na. Đó là giờ phút chúng tôi run sợ khi chúng tôi tin thân thể Ngài đã được xây dựng. Chúng tôi cùng nhau cúi đầu và thờ phượng Ngài.



Dâng Sinh Tế Sống

Đã sáu năm rồi kể từ ngày Ngài bắt đầu xây dựng thân thể của Ngài qua chúng tôi. Ông bạn người Lỗ-ma-ni của chúng tôi, Mục sư Dumitru Duduman, đã đến thăm và nói tiên tri về Hội Thánh chúng tôi. Ông nói, "Chúa sẽ lay động các bạn và thanh tẩy các bạn ba lần để xây dựng thân thể của Ngài."

Quả nhiên Ngài đã làm như vậy. Nhiều người đã đến với Hội Thánh Truyền Giáo Manna (Manna Mission Church) của chúng tôi, nhưng nhiều người cũng bỏ đi trong những lò lửa thử thách. Chỉ có một số ít người còn ở lại và đã được thanh tẩy đức tin trở nên như vàng ròng. 
Ngài đã kêu gọi chúng tôi vào trong đồng vắng và dạy chúng tôi về đức tin thật như thể nào khi trải qua gian khổ và đau đớn. Ngài dạy chúng tôi cách chiến đấu chống lại những con rắn độc dữ trong sa mạc. Ngài đã dạy chúng tôi cách tin cậy Ngài. Chúng tôi đã tạ ơn Ngài sau khi chúng tôi học biết ý nghĩa của sự từ bỏ mình vác thập tự giá mình đi theo Chúa trải qua tất cả những thử thách đớn đau.
Sứ đồ Phao-lô đã viết, "Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống không phải là tôi sống nữa, nhưng là Đấng Christ sống trong tôi. Nay tôi còn sống trong xác thịt là sống bởi đức tin đặt nơi Con Đức Chúa Trời là Đấng đã yêu tôi và phó mình vì tôi." Chúng tôi đã quì gối xuống, xưng nhận những lời nầy. Chúng tôi trở nên những môn đồ của Ngài.
Thật ra, đã hai năm qua Ngài đã khởi sự thành lập thân thể nầy. Chính nhóm người bé nhỏ nầy đã được Ngài sử dụng theo mục đích của Ngài. Ngài đã làm ứng nghiệm những lời Ngài và những lời tiên tri ở những nơi chốn và thời điểm khác nhau để đem dân Ngài về đất của Ngài trong thời đại cuối cùng.
Từ khi Liên Bang Sô-viết sụp đổ năm 1989, nhiều người Do Thái đã rời bỏ Nga để về nước Israel. Đó là cuộc Xuất Hành lần thứ hai. Kết quả là có nhiều người Do Thái Nga, bao gồm những Khoa học gia, những Kỹ sư, những Bác sĩ và những Nghệ sĩ đã nhập cư nước Israel. Nhóm nhỏ của chúng tôi đã khởi sự giúp đỡ họ qua một người Mỹ gốc Do Thái tên là Steve Lightle. Chúng tôi cũng giúp đỡ Hội Thánh của Mục sư Duduman ở Lỗ-ma-ni.
Khi Hội Thánh Truyền Giáo Manna ra đời, Ngài đã giao cho chúng tôi một sứ mạng khác. Ngài đã dẫn chúng tôi đến công tác ấn hành quyển Kinh Thánh Tân Ước tiếng Do Thái tại nước Israel. Chúng tôi đã trải qua nhiều chiến trận thuộc linh trong khi hoàn thành kế hoạch của Ngài dành cho chúng tôi, nhưng thân thể Ngài đã chiến thắng nhờ sự bảo vệ của Ngài như lời Ngài đã hứa.
Nhiều lần tôi kêu khóc với Ngài, "Chúa ôi, con không thể!" khi tôi dẫn một con chiên đi qua con đường núi hẹp. Một ngày kia, tôi hỏi Ngài, "Lạy Chúa, con quá mệt rồi. Con đã trên 70 tuổi. Xin hãy đưa con về nhà."
Ngài lại phán, "Hãy làm một sinh tế sống." Chăn chiên không phải là việc dễ dàng. Bệnh tiểu đường và áp huyết cao của tôi càng nặng hơn do sự mệt mỏi tạo ra. Mắt tôi không còn nhìn thấy rõ. Tôi mệt và yếu, nhưng vì bệnh tiểu đường, tôi không được phép giải phẩu mắt.
Lần đầu tiên năm 1995, tôi đã không dự được lễ đón Giáo Thừa. Tôi nằm trên giường mắt mờ, sức yếu. Thậm chí tôi không thể uống được một ly nước lạnh. Tôi phải vào bệnh viện vào tháng Giêng. Huyết áp của tôi trên 300. Dù uống thuốc huyết áp cũng không giảm. Các Bác sĩ đã khám bệnh và xét nghiệm tôi nhưng họ đã không tìm được nguyên do, ngoại trừ bệnh tiểu đường. Tình trạng còn tệ hơn khi hôm sau mí mắt tôi không nhấp nháy được. Tôi cố mở mắt nhưng không mở được. Họ thử áp lực mắt của tôi và các sóng trong óc tôi nhưng họ thấy không có gì sai trật cả. 
Sau khi thử nghiệm rất kỹ, Bác sĩ mắt của tôi đã nói với tôi, "Dây thần kinh thứ ba trong mí mắt trái của bà bị tê. Vì cớ tuổi già, hầu như bà không thể hồi phục dây thần kinh đó."
Điều gì đã xảy ra cho tôi? Mắt trái của tôi bị mù và huyết áp của tôi vẫn còn cao. Tôi nghĩ đây là lúc Ngài đưa tôi về nhà. 
Từ bệnh viện tôi về nhà vào ngày 6 tháng Giêng. Đầu tôi bị đau do áp huyết cao, cứ vẫn trên 300. Tôi đã chườm bao nước đá trên đầu suốt đêm để làm giảm cơn đau. Vào rạng sáng, tôi bò khỏi giường và quì gối trước Ngài. Tôi thưa, "Lạy Chúa, xin hãy cất con đòi già yếu của Ngài đi. Con quá yếu. Mắt trái của con đóng lại và mắt phải của con không thấy đường. Bệnh tiểu đường và cao huyết áp đã đến mức tệ nhất. Con quá mệt. Lạy Chúa, con bỏ hết mọi sự. Nếu Ngài muốn giao cho con việc gì nữa, xin hãy ban cho con sự sống. Nếu không, xin hãy cất con đi. Con đau quá, Chúa ơi."
Tôi nhìn lên tủ thuốc bằng mắt phải. Tôi chỗi dậy và lấy hết thuốc ra khỏi tủ, đó là thuốc trị cao huyết áp, thuốc trị bệnh tiểu đường và thuốc chữa mắt. Tôi ngước lên nhìn Ngài với cả tấm lòng và linh hồn của tôi. 
Buổi sáng Chúa nhật hôm đó, tôi đặt một miếng băng lên mắt trái của tôi và có hai nữ Chấp sự đến giúp tôi bước lên các bậc thang của nhà thờ. Khi tôi vừa khóc vừa bám lấy tòa giảng, chân của tôi run rẩy, tôi nghe Ngài phán, "Hãy làm một sinh tế sống."



Sống Lại Từ Cõi Chết

Tôi đang bất tỉnh. Tôi cảm thấy thân thể của tôi từ từ rơi xuống như chiếc tàu đang chìm. Tôi nghĩ tâm linh tôi sắp rời thân xác tôi. Tôi nghe những tiếng cầu nguyện nức nỡ. Tôi không thấy rõ nhưng biết rõ những đứa con gái thuộc linh của tôi đã đến quanh giường để cầu nguyện cho tôi mỗi ngày. Sự cầu nguyện tha thiết nầy đã chạm đến ngai của Ngài. Từ từ, tôi tỉnh lại.

Tối thứ Sáu cũng trong tuần đó, tôi đến nhà thờ với sự giúp đỡ của những cô con gái thuộc linh của tôi. Tôi nằm xuống trước tòa giảng. Tất cả các tín hữu trong Hội Thánh chúng tôi đã hiệp lại xung quanh tôi và khởi sự cầu nguyện tha thiết xin Chúa chữa lành cho tôi bắt đầu từ 8 giờ tối cho đến 8 giờ sáng hôm sau. Họ khóc lóc cầu nguyện, nài xin Chúa đổi thân thể và đôi mắt của họ thế cho tôi để tôi được chữa lành. Không chút sợ hãi, họ hứa sẽ dâng hiến cho Ngài chính đời sống họ nếu Ngài mở mắt trái của tôi. 
Những lời cầu nguyện nầy tiếp tục vài tuần mãi cho đến ngày 15 tháng Hai, đúng vào ngày thứ 40. Vào ngày đó, mắt trái tôi mở ra. Tất cả các tín hữu Hội Thánh của tôi đã nhìn thấy bàn tay lạ lùng của Ngài và hết lòng ngợi khen Ngài. Qua biến cố nầy, bệnh tiểu đường và bệnh cao huyết áp của tôi đã được chữa lành mà không cần bất cứ thuốc men nào. Cho đến nay, tôi không uống bất cứ loại thuốc nào. 
Qua biến cố thách thức nầy cả Hội Thánh của tôi đã nhận được ân tứ và quyền năng để trở thành những chiến sĩ cầu nguyện. Đức tin của họ tăng lên và họ bắt đầu tin cậy chỉ một mình Ngài mà thôi. Tôi là một nhân chứng sống của tất cả những phép lạ.
Rồi từ công tác truyền giáo cho nước Israel, Ngài đã dẫn Hội Thánh chúng tôi cho công cuộc truyền giáo thế giới. Lúc nầy chúng tôi đang thuê tầng hai của một toà nhà thuộc một Đại Chủng Viện và một trong những sinh viên của Đại Chủng Viện Thế Giới Thứ Ba ở trọ tại tầng dưới. Khoảng một năm, Hội Thánh chúng tôi đã giúp đỡ Đại Chủng Viện và các sinh viên bằng sự cầu nguyện và của cải của chúng tôi. 
Vào tháng Mười Hai năm 1996, một Trưởng lão của Hội Thánh chúng tôi đã đem đến cho tôi một quyển sách nhan đề, "Một Sự Mặc Khải Thiên Thượng Về Hoả Ngục" viết bởi Mary Baxter. Sau khi đọc xong trong bản dịch bằng tiếng Đại Hàn, tôi nhận thấy đây là quyển sách tốt có mục đích truyền giáo nhằm giải thích về sự thực của hỏa ngục. Sau khi cầu nguyện, chúng tôi học biết rằng đó là ý Ngài muốn dùng quyển sách nầy để mở mắt thuộc linh của tôi. Chúng tôi đã cầu nguyện suốt hai tháng trong cuộc chiến thuộc linh.
Hội Thánh đã mua một số lượng lớn sách nầy bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Đại Hàn. Chúng tôi đã gởi nhiều quyển cho các Giáo sĩ Đại Hàn khắp nơi trên thế giới. Chúng tôi đã cầu nguyện và gieo giống để ít ra một linh hồn được đến với Ngài qua quyển sách nầy. Chúng tôi vâng theo ý muốn Ngài. Chúng tôi tin tưởng Ngài sẽ tưới bón và gặt hái trong mùa của Ngài.
Sau đó Hội Thánh chúng tôi đã mua thuốc men và gởi đến cho các Giáo sĩ khắp nơi trên thế giới để giúp họ duy trì sức khoẻ. Họ cần những thân thể khoẻ mạnh để truyền bá Tin Lành.
Ngài có một mục đích đặc biệt cho những tôi tớ của Ngài. Ngài dùng Hội Thánh chúng tôi liên hệ với những tôi tớ khiêm tốn của Ngài khắp nơi trên thế giới là những người đã sẵn sàng hy sinh đời sống vì cớ Chủ của họ trong thời đại cuối cùng. Ngài dùng chúng tôi như một trung tâm hổ trợ những vị Giáo sĩ nầy qua sự cầu nguyện và sự dâng hiến tài chánh.
Tháng Mười năm 1997, một năm rưỡi sau, mí mắt bên phải của tôi đã đóng lại y như trước đây. Tôi lại muốn biết lý do tại sao? Tôi đã tìm kiếm Ngài và cầu nguyện tha thiết xin Ngài bày tỏ ý Ngài. Cả Hội Thánh lại bắt đầu kiêng ăn, ăn năn về sự bất trung và sự thiếu vâng lời. Họ đã ăn năn về đức tin nửa chừng của họ và họ đã tái dâng mình cho Chúa là Đấng đã phó mình vì họ.
Lạ lùng thay, mí mắt bên phải của tôi đã mở ra trở lại vào đúng ngày thứ 40! "Mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời là những kẻ đã được gọi theo ý muốn Ngài đã định." Điều đó đúng như lời Chúa hứa với chúng tôi. Ngài đã dựng nên loài người từ bụi đất và ban cho họ hơi sống. Loài người trở nên loài có sanh linh. Thậm chí Ngài điều khiển cả những tư tưởng của họ. Không một con chim sẻ nào rơi xuống đất mà không theo ý của Ngài.
Tôi đã nhìn vào gương soi và kinh ngạc mở mắt phải ra. Ngài lại đến và phán với tôi lần nữa, "Hãy làm chứng nhân cho Ta cho đến tận cùng trái đất." Ngài đã phán cũng những lời đó với tôi 33 năm về trước trong một phòng khách sạn tại Đài Loan. Lúc đó tôi còn trẻ, khoẻ và giàu có với một người chồng hết mình ủng hộ tôi. Vì thế tôi đã can đảm trả lời vâng.
Lần nầy cũng vậy, tôi đã trả lời vâng, nhưng bây giờ tôi không có gì cả. "Con không có gì cả. Con quá già và quá yếu..." Tôi nghĩ mình giống như bà Sa-ra và mĩm cười. Năm sau, tôi được giải phẩu cườm mắt và thị lực của tôi được cải thiện rất nhiều. Bây giờ tôi thấy được bình thường. Thậm chí tôi có thể đọc Kinh Thánh mà không cần kính. Tôi đã ăn năn vì không biết tạ ơn về việc Ngài cho tôi sáng mắt suốt đời tôi. Ngài đã cho tôi tất cả cách miễn phí vì cớ tình yêu vô điều kiện của Ngài. Ngài đã chăm sóc tôi và bảo vệ tôi trong mọi chi tiết nhỏ nhặt của đời tôi.
Như một người tớ già 75 tuổi đã bước đi qua trũng bóng chết, tôi phủ phục trước chân Ngài và thờ phượng Ngài với tất cả tâm thần và linh hồn của tôi.



Giỏ Đầy Thứ Mười Hai: CHÉN TÔI ĐẦY TRÀN

Ngọn Đuốc Cháy Rực 

Dân Làng Thành Bê-tha-ni 
Bươn Tới Phía Trước

Ngọn Đuốc Cháy Rực
Đó là một đêm mưa tháng Năm, 1998. Tôi ngồi trước một nhóm những Tiến sĩ đầy hiểu biết trong một phòng học nhỏ tại Đại học Han Dong ở Đại Hàn.

Tôi chỉ là một đầy tớ Chúa tuổi cao sức yếu đến từ Hoa Kỳ. Tôi không biết phải nói những gì với nhóm người có bằng Tiến sĩ giỏi giang này. Tôi chỉ muốn trở nên một chứng nhân cho Ngài, Đấng tôi đã gặp năm tôi hai mươi ba tuổi. Trong gần hai giờ liền, Ngài phán với họ qua tôi. Thậm chí tôi không uống một ngụm nước.
Ngài hỏi từng thính giả trong phòng một cách công khai, “Con yêu dấu, Chúa Giê-xu có thật sự là Chúa của con không? Con có đang hầu việc Ngài không? Hay con chỉ hầu việc Ngài qua Trường Đại Học và Viện Trưởng Kim? Nếu con tin rằng Ngài thật là Chúa hằng sống thì con có thể chịu đựng được những thử thách đang chờ con ở đằng trước không? Nếu Ngài thật đã chịu khổ, đã đổ huyết để chết cho tội của con thì con xem việc mình được dự phần trong sự đau khổ của Ngài là một sự vinh hiển không? Hay đó là nỗi đau đớn của con? Nếu con tin Chúa Cứu Thế Giê-xu thật sự là Đức Chúa Trời thì con phải biết rằng không có sự đau đớn và chịu khổ nào cho Ngài là đủ cả.”
Khi Ngài hỏi họ điều này để đi đến kết luận thì có một sự yên lặng kéo dài.
Điều đó là sự thật. Ngài chính là Đức Chúa Trời chân thật đã mang hình người để đến thế giới tội lỗi này. Ngài hy sinh trên thập tự giá để cứu chúng ta khỏi tội lỗi và những điều phạm phép. Và nếu chúng ta thật sự tin điều đó thì chúng ta không thể ta thán khi hoàn cảnh xung quanh trở nên bất lợi và những điều xảy đến làm phật ý chúng ta. Những bệnh nhân phung ở trại “Sự Sống Mới” tại Myang đã ca ngợi Chúa với cả tấm lòng của họ. Chúng ta có phước hơn những người phung đó rất nhiều. Chúng ta khỏe mạnh và hưởng được nhiều điều bằng nhiều cách khác nhau.
Nhưng nếu chúng ta không có tấm lòng thật sự biết ơn Ngài thì chúng ta chẳng đáng đem so với những người phung kia. Nếu như những người đói khát, cô đơn, lạnh lẽo có thể yêu thương và ca ngợi Ngài với cả tấm lòng của họ thì tại sao chúng ta là những người sống trong sự thoải mái và ấm cúng, có sức khỏe và thức ăn lại không thể làm điều tương tự? Chẳng lẽ chúng ta không thể ca ngợi Ngài nhiều hơn những con người ấy sao? Những đứa con vô ơn, không biết trân trọng những gì mình được hưởng như chúng ta mới thật sự là những tội nhân rẻ mạt nhất. Tôi đau đớn về những tội lỗi của mình, và một lần nữa tôi gục đầu xuống trước Ngài.
Đầu năm 1998, tôi nhận được một cú điện thoại từ Đại Hàn. Như đã nói trước đây, tôi có một miếng đất ở Bugok, Đại Hàn bị nhà nước hạn chế sử dụng. Bây giờ tôi được báo là lệnh hạn chế đất đai được bãi bỏ theo như kế hoạch mở rộng đô thị của Chính phủ. Người ta dự định sẽ xây dựng một xa lộ công ngiệp băng ngang thành phố. Vì thế, chủ miếng đất sẽ được Chính phủ bồi thường một số tiền. Họ gọi tôi về để nhận số tiền ấy. Tuy vậy, lúc ấy tôi chưa sẵn sàng cho một chặng đường dài quay trở về Đại Hàn nên tôi đã hoãn chuyến đi lại.
Một hôm nọ, trong lúc đang nghe một cuộn băng mà một Trưởng lão trong nhà thờ đã tặng cho tôi, tôi được nhắc nhở lại một việc mà tôi lãng quên trong bốn mươi năm. Khi chồng tôi cùng chú tôi thành lập Trường Đại Học, tôi đã cố gắng sửa soạn cho họ những sinh viên trẻ tuổi được trang bị không những với kiến thức mà còn có cả Tin Lành nữa. Qua việc làm này, tôi muốn họ yêu mến đất nước và dân tộc của họ.
Lúc ấy, chồng và chú tôi là người chưa tin Chúa. Nên điều duy nhất mà tôi có thể làm là thuyết phục chồng tôi xây một nhà nguyện trong khuôn viên trường. Tim tôi đập mạnh và nước mắt tôi trào ra. Cuối cùng, Ngài cũng đã xây Trường Đại Học Han Dong, ngôi trường chắc chắn rất quý báu trong mắt Ngài. Ngài hẳn lấy làm vui lòng lắm.
Tôi hết lòng ao ước được tuyên dương và ca ngợi những người ở Trường Đại Học. Tôi không thể chờ đợi lâu hơn nữa cho nên dù chưa hỏi ý các con, tôi đã đặt vé máy bay và chuẩn bị giấy tờ cho việc sang tên chủ quyền đất. Tôi rời Hoa Kỳ về Đại Hàn trong lúc các tín hữu trong Hội Thánh bắt đầu kiêng ăn cầu nguyện.
Vừa về đến Đại Hàn, tôi liền đến Tòa Thị sảnh Bugok để lo những giấy tờ cần thiết. Qua Mục sư Ha ở nhà thờ Onnuri, tại Seoul, tôi gặp bà Kim, vợ ông Viện Trưởng Trường Đại Học. Ngay ngày hôm sau, tôi tìm đến Trường Đại Học tại Pohang.
Cơn mưa đầu xuân khiến cho thành phố Pohang trở nên ẩm ướt. Công việc xây dựng nhà nguyện đang được xúc tiến ở gần cổng trường Đại Học. Tôi có thể cảm nhận từng giọt mồ hôi và lời cầu nguyện của nhiều người trong từng viên gạch.
Lòng tôi rộn lên vì sung sướng khi tôi nhìn thấy những khuôn mặt sinh viên trẻ tuổi đang tươi cười trên khuôn viên ẩm ướt của trường Đại Học. “Chúa ơi! Cuối cùng Ngài đã làm công việc của Ngài. Ngài khởi sự thực hiện công tác cứu rỗi của Ngài tại Đại Hàn và trên toàn thế giới.”
“Ngài đem sự sáng đến cho bóng đêm
Ngài đem hy vọng trong sự tuyệt vọng
Ngài đem an ủi trong sự đau đớn
Ngài giơ cao ngọn đuốc rực sáng.”
Nước mắt tuôn dài xuống mặt tôi như những giọt nước mưa. Tôi được dẫn tới văn phòng Viện Trưởng, Tiến sĩ Y. K. Kim. Người đàn ông cao ráo tóc bạc này đang chờ đón tôi. Sau khi chào hỏi lẫn nhau, tôi lấy ra tờ giấy sang tên chủ quyền đất mà tôi đã giữ trong 40 năm và đưa cho ông.
Tôi cảm thấy ngượng ngùng vì đây chỉ là một sự đóng góp nhỏ nhoi. Nhưng đó là tất cả những gì còn lại trong tay người góa phụ đã 30 năm nay. Nó giống như hai đồng xu cuối cùng mà tôi có thể dâng cho Ngài. Ngài yêu tôi và đã vì tôi mà từ bỏ mạng sống của mình.
Khi tôi trình bày mục đích của chuyến viếng thăm và bày tỏ tấm lòng của tôi đối với Trường Đại Học, Tiến sĩ Kim rút khăn tay ra lau nước mắt mình.
Mọi giấy tờ cho việc sang tên chủ quyền đất được hoàn tất trong vòng hai tiếng đồng hồ.
Tiến sĩ Kim mời tôi nói chuyện với các Giáo sư tối hôm đó. Đó là lý do tôi đang đứng trước nhóm Giáo sư hiểu biết sâu rộng này. Đêm đó, Ngài đã dùng môi miệng của người đầy tớ cao tuổi này để đem lời Ngài đến cho họ. Sau này, tôi được kể lại lúc đó Trường Đại Học đang ở trong thời điểm gay go nhất. Các Giáo sư và nhân viên không nhận được hai tháng lương của mình. Người ta bắt đầu nghi ngờ kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho họ. Linh của sự tối tăm cấu xé tâm hồn họ.
Thế rồi một ngày không ai để ý tới, có một nữ Mục sư cao tuổi ở tận bên kia Thái Bình Dương bỗng nhiên xuất hiện ở Trường Đại Học ở Pohang, nằm tận cùng bán đảo Triều Tiên. Sau khi hoàn tất thủ tục sang tên chủ quyền đất, tôi nói với họ, “Đức Chúa Trời Toàn Năng rất yêu thương anh em. Ngài đã lập nên Trường Đại Học này vì sự vinh hiển của Ngài. Vì thế, Ngài sẽ giúp đỡ anh em trong mọi khó khăn nếu anh em bền lòng tin cậy Ngài và bước đi với Ngài cho đến cuối cùng.”
Sau khi họ nghe thông điệp của Ngài được phán qua tôi, họ tin chắc rằng Đức Chúa Trời đang hiện diện tại ngôi Trường Đại Học này. Đêm đó, ước nguyện cuối cùng của tôi là được thấy họ hầu việc Chúa đã xuyên thấu tâm hồn của các Giáo sư và nhân viên ở đó. Đó là thời điểm họ bắt đầu suy nghĩ về mối liên hệ giữa họ với Đức Chúa Trời và với những người khác. Bằng lời hằng sống đầy sự an ủi và tính thuyết phục của mình, Ngài đã đảm bảo với họ là Ngài sẽ giúp đỡ họ trong cơn tuyệt vọng.
Đêm hôm ấy, Ngài đã đem đến cho họ sức sống mới và bổ lại tâm linh họ. Kể từ đó, họ có thể bước gần hơn với Ngài. Chuyện là như thế đó. Đó là sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài. Ngài biết những nhu cầu của con người và Ngài khiến mọi việc hiệp lại để phục vụ cho một mục đích tốt đẹp. Tôi dâng lời cảm tạ lên Ngài, Đấng sáng tạo nên muôn loài vạn vật.
Nếu tôi có được lời ước cuối cùng thì đó là từ Trường Han Dong mà Ngài đã xây cho chính Ngài, sẽ dấy lên nhiều thanh niên nam nữ trẻ tuổi cho tương lai của Đại Hàn. Ngôi Trường sẽ trở nên một nơi gây dựng đức tin mà từ đó nhiều con cái Chúa sẽ bước ra. Bất cứ nơi nào họ đặt chân đến, họ cũng sẽ trở thành ánh sáng thật và muối của thế giới xấu xa này.

Dân Làng Thành Bê-tha-ni
“Ôi Mục sư! Đã bao năm trôi qua kể từ lúc bà đi khỏi đây trong hàng nước mắt. Tôi đã cầu xin Chúa cho tôi được gặp lại bà và cầm tay bà trước khi tôi chết.”

Bà Hong chạy ra ôm chầm lấy tôi trước khi chiếc taxi còn chưa dừng hẳn. Chao ôi! Tôi đã ao ước gặp họ biết chừng nào. Họ là những người con yêu dấu của Ngài. Tôi nhìn kỹ họ và để ý thấy có nhiều vết nhăn hằn sâu trên khuôn mặt của họ. Một thời gian dài đã trôi qua. Tôi rời khỏi thị trấn nhỏ này trong nước mắt đã 25 năm. Tôi đã vô cùng thất vọng trước việc người ta lừa đảo để chiếm lấy các bất động sản. Tôi còn nhớ lúc đó tôi đi dọc theo con đường nằm dọc theo ruộng lúa và khóc. Tôi tự hứa với mình chỉ sẽ quay trở lại nơi này trước lúc nhắm mắt.
Tôi ngồi trong phòng khách và thấy càng nhiều khuôn mặt quen thuộc xuất hiện. Khuôn mặt họ đã thay đổi cùng với thời gian nhưng một điều mà tôi thấy không hề thay đổi, đó là tình yêu của họ đối với Ngài và đối với tôi sau bao nhiêu năm trường.
Từ đằng xa, con gái bà Hong đến chào tôi dù rằng cô đang phải chống nạn vì bị tai nạn xe hơi. Đêm trước đó, cô đã chuẩn bị cho tôi những món ăn thật ngon miệng. Ở đâu tôi có thể tìm thấy tình yêu quý báu và chân thật dường ấy? Thức ăn của họ là lương thực từ trời, giống như ma-na vậy. Đó là bữa ăn trong tình yêu và nước mắt. Đó quả là một thời gian quý giá vô ngần.
Ồ, tôi nghĩ đây chính là lý do tại sao Chúa tôi muốn ở cùng với người nghèo. Những người ngồi quanh chiếc bàn này là những người đã hứa nguyện yêu Ngài cho đến cuối cùng khi ngôi nhà nguyện trên núi này được xây cất cách đó đã lâu lắm.
Sau khi dùng bữa trưa, tôi hỏi họ liệu có thể lên núi thăm lại ngôi nhà nguyện không, nhưng họ đề nghị tôi không nên đi vì nó sẽ làm tôi đau lòng. Nhưng đó là chuyến đi cuối cùng của tôi, nên tôi muốn được nhìn thấy ngôi nhà nguyện. Tôi đến nơi và thấy đó là một nơi hoang vắng tiêu điều. Nhà nguyện lẫn hồ cá đều không còn nữa. Không còn lại gì cả. Tôi đi xuống núi và gặp ông Lee, ông nài nỉ tôi đến nhà ông. Bây giờ mọi chuyện đã thuộc về quá khứ và tôi muốn quên hết mọi sự.
Một lát sau, con gái của ông và vị Mục sư của cô bước vào. Tôi tiếp họ và chào hỏi họ. Ông Lee bây giờ đã già. Tôi cầm tay ông và hỏi thăm tình hình của ông. Nhưng ông không thể ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt tôi. Nếu ông còn cảm thấy xấu hổ trước một phụ nữ cao tuổi như tôi thì làm sao ông có thể đứng trước Ngài, Đấng nhìn thấu tấm lòng của mỗi người với đôi mắt rực lửa của Ngài.
Tôi thấy xót xa cho linh hồn của ông và tôi cầm tay ông rồi cầu nguyện cho ông. Tôi cầu xin lòng thương xót và ân huệ của Ngài giúp ông ăn năn để ông không phải hổ thẹn khi đứng trước mặt Ngài.
Tôi trở lại nhà bà Hong và sẵn sàng cho việc trở lên Seoul. Mỗi người tặng tôi một món quà nhỏ, gồm có dầu mè, dầu perrila, bột trái đấu, tiêu xay và nhiều thứ khác. Tất cả đều là những món quà của tình yêu thương. Tôi nắm tay từng người chào tạm biệt và hẹn gặp lại trên thiên đàng. Bà Hong đứng đó trên đường lau nước mắt của mình. Bà vẫy tay chào khi chiếc xe ô-tô phóng ra khỏi lối vào thị trấn cũ kỹ ấy. Tôi không nhìn thấy nhưng chắc là bà đã khóc nhiều lắm những ngày sau đó.
Tình yêu đối với đồng loại thật là một điều đẹp đẽ và quý giá biết bao trong mắt Ngài! Họ là những người không có lấy một lời giả dối và sự giả hình. Họ không có sự giàu có của trần gian nhưng họ có tình yêu thương. Đức Chúa Trời sẽ vui mừng đón họ khi họ đến vương quốc của Ngài. Họ không học cao và không có nhiều tài sản. Họ không tự hào về chính mình. Họ chỉ là những người dân quê nghèo nàn và bình dị. Nhưng kho báu của họ rất quý giá và mắt họ ngời sáng như mắt đàn nai. Họ là những người có thể tha thứ cho kẻ thù của mình, bao phủ kẻ thù bằng sự cầu nguyện và thậm chí yêu thương kẻ thù. Sự bình an của Ngài tuôn tràn trong những con người xinh đẹp ở thị trấn nhỏ bé yên tĩnh này. Họ thật sự là những người hạnh phúc đang bước đi trên đường hẹp của cuộc đời.

Bươn Tới Phía Trước
Vậy là đã 25 năm trôi qua kể từ khi tôi rời ngôi nhà thân thương của tôi tại Bu Am Dong. Cái cổng bằng thép và những bức tường đá vẫn còn đó. Tôi mở cổng và bước vào bên trong. Mọi vật thật tĩnh lặng. Tôi bước lên những bậc thang để đến sân giữa. Những ký ức ngày trước ùa về như thể mọi chuyện vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Tôi nhìn vào bên trong từ cánh cửa để mở và nhìn thấy những bức tường, những cây cột, các bố trí…rất đỗi quen thuộc. Thậm chí căn phòng hấp quần áo vẫn ở nguyên vị trí ở bên kia cầu thang.

Sau khi chồng tôi qua đời, tôi phải tranh đấu để có thể giữ lại ngôi nhà rộng lớn này cùng với một chú chó chăn cừu. Giờ đây, phần đất được hiến tặng và những tòa nhà xung quanh được dùng làm trụ sở chính của tổ chức Chiến Dịch Sinh Viên Vì Đấng Christ. Căn nhà cũ của tôi được dùng làm nơi tiếp khách. Hôm đó là ngày Chúa Nhật; có nhiều sinh viên đi lên đồi. Thật là một cảnh tượng đẹp đẽ trong mắt Chúa.
Một sinh viên hỏi tôi, “Bà đang tìm ai vậy?” Tôi trả lời, “Tôi là khách mới đến, chỉ muốn ngắm nhìn một chút.” Khi tôi nhìn thấy nhiều sinh viên trẻ tuổi đi lên đồi, tôi thầm nguyện trong lòng xin Chúa ban phước cho họ.
Tôi nhìn lên và bắt gặp cây thập tự trên nóc nhà thờ Samae (ba tình yêu thương) nằm trên đồi. Đây là ngôi nhà thờ mà nhiều năm trước tôi đã dâng hiến cho Chúa trong nước mắt. Tôi muốn đến thăm nhà thờ trước khi quay về Los Angeles. Ngọn đồi hẹp và dốc dẫn đến nhà thờ vẫn y nguyên như thời điểm 30 năm về trước. Điểm khác biệt duy nhất là giờ đây có nhiều căn nhà mọc lên dọc theo sườn đồi. Tôi đã từng đi lên ngọn đồi này, đầu đội bữa trưa cho các công nhân xây dựng. Còn giờ đây, tôi cần có người giúp đỡ và không thể đi liền một mạch lên đồi được nữa.
Tôi lên đồi trước giờ thờ phượng sáng Chúa Nhật. Tôi nhìn xung quanh sân nhà thờ và thấy cây liễu nơi tôi đã từng ngồi khóc vì không có tiền trả lương cho công nhân. Tôi đi đến sờ vào thân cây và hồi tưởng lại quá khứ. Nhà thờ được trang hoàng lại rất đẹp mắt. Từng viên gạch của nhà thờ dường như đều chứa đựng nước mắt của tôi.
Tôi ngồi yên lặng ở hàng ghế cuối cùng và dâng lên Ngài lời cảm ơn chân thành nhất. Buổi lễ chấm dứt, lúc tôi sửa soạn rời khỏi nhà thờ thì bỗng bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc. Tôi không chắc lắm nhưng cứ lên tiếng hỏi, “Bà là bà Lee phải không?” Bà quay đầu lại và nhận ra tôi ngay lập tức.
Bà thốt lên trong tiếng khóc, “Ôi, bà Yoo đây mà! Phải chăng đây là giấc mơ. Tôi đã cầu nguyện rằng tôi muốn gặp lại bà trước khi tôi qua đời. Ngài đã đáp lại lời thỉnh cầu bé nhỏ của tôi. Tôi muốn biết tin về bà đến nỗi hễ có ai sang Mỹ là tôi liền nhờ họ tìm giùm bà Yoo. Từ lúc bà ra đi, tôi luôn hy vọng một ngày nào đó bà sẽ trở lại và tôi đã đợi tại ngôi nhà thờ này đã 30 năm.”
Bà khóc thổn thức như một đứa trẻ. Mọi người nhìn chúng tôi với ánh mắt chứa đầy sự thắc mắc. Vị Mục sư Quản Nhiệm đến hỏi tại sao bà khóc. Bà giới thiệu tôi cho ông trong nước mắt. Ông hỏi tôi, “Vậy ra bà là bà Yoo à? Hằng năm, cứ vào lễ cảm tạ, chúng tôi đọc lại lịch sử nhà thờ và có tên bà Yoo. Phải đó chính là bà không?" Các bà trung niên vây lấy tôi và nhận ra tôi. Khi tôi còn ở nhà thờ thì họ mới là những thiếu nhi. Chúng tôi ăn trưa rất ngon và sau đó đi đến tư thất Mục sư. Tôi nghĩ tư thất Mục sư phải nằm cạnh nhà thờ nhưng chúng tôi phải đi qua một dãy nhà trước khi đến chỗ của ông. Bà Lee cùng đi với chúng tôi; bà nắm chặt lấy tay tôi như thể sợ tôi sẽ chạy mất. Chúng tôi bước vào nhà; bà rút ra quyển sổ địa chỉ và bắt đầu gọi cho những người bạn cũ.
“Đúng rồi! Bà Yoo đang ở nhà Mục sư. Hiện nay bà đã là Mục sư rồi. Tôi đã nói là bà sẽ về lại mà! Hãy đến đây mau.” Trong lúc bà đang gọi điện thoại thì tôi nghe lại một giọng nói quen thuộc ở trước cửa, “Bà Yoo, bà Yoo!” Người phụ nữ ấy đang khóc. Tôi nhận ra bà ngay. Vào thời điểm đó, Bu Am Dong đầy dẫy những người nghèo. Tôi đặc biệt gần gũi với người phụ nữ này và chia sẻ tình yêu của Ngài cho bà. Bà chạy ùa vào phòng, nước mắt ràn rụa. Tôi nhận thấy khuôn mặt xinh đẹp của bà đã có nhiều thay đổi với nhiều nếp nhăn xuất hiện theo năm tháng.
Bà ôm lấy cổ tôi và thổn thức khóc lớn tiếng. “Ngay cả khi mẹ ruột tôi sống lại, tôi cũng không thể hạnh phúc như thế này. Tôi còn nhớ trước khi bà sang Mỹ, bà đã đến thăm khu phố tồi tàn của chúng tôi lần cuối cùng. Bằng tiền máy bay của mình, bà đã mua cho chúng tôi một bao gạo và ra đi trong nước mắt sau đó. Từ lúc ấy trở đi, cứ mỗi lần tôi vo gạo nấu cơm, tôi lại nhớ đến bà và không kìm được nước mắt của mình."
Tình thương mà họ dành cho tôi không đến từ con người. Khi bạn cũ gặp lại nhau thì tình cảm tràn trề nhưng khi xa nhau thì tình cảm ấy cũng biến mất. Đó là bản chất của con người. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình thậm chí cũng trở nên nhạt nhẽo dần sau một khoảng thời gian sống xa nhau. Nhưng tình thương mà họ dành cho tôi được đâm rễ trong tình thương bất diệt của Đức Chúa Trời. 
Ba mươi năm trôi qua mang đến nhiều thay đổi ngoại trừ một điều, đó là tình yêu mà Ngài dành cho tôi. Tình yêu của Ngài dành cho tôi thật sâu rộng và cao cả vượt quá sự tưởng tượng của chúng tôi. Những mối liên hệ sản sinh ra bởi tình yêu của Ngài vẫn tỏa mùi thơm tươi mới trước sự thách thức của thời gian.
Tôi cảm giác như mình đang say trong niềm vui và niềm hạnh phúc. Tôi hỏi họ, “Tại sao tư thất Mục sư lại bị dời đi? Nó đã từng ở bên hông nhà thờ mà?”
Bà vợ vị Mục sư trả lời, “Vị Mục sư đầu tiên nói bà Yoo đã bán căn nhà cho ông khi bà đi sang Mỹ, và ông đã cho thuê căn nhà ấy. Khi ông đi khỏi nhà thờ, ông đã mang theo luôn số tiền nhà. Tôi đã sống trong tầng hầm của nhà thờ trong 15 năm. Các con tôi không có đủ chỗ vì ở đó quá chật chội, vì thế năm ngoái nhà thờ cho chúng tôi mướn căn nhà này và chúng tôi chuyển đến đây.”
Khi tôi nghe lời giải thích ấy, tôi sực nhớ lại một chuyện. Vị Mục sư đầu tiên đi khỏi nhà thờ và sau đó ông sang Mỹ trước tôi. Tôi gặp ông ở Los Angeles và ông giúp các con trai tôi học hành cũng như kiếm việc làm. Một thời gian sau, tôi nghe tin ông nằm bệnh viện nên đến thăm ông. Ông cầm tay tôi nói, “Xin hãy tha thứ cho tôi.” Tôi đáp, “Tôi không có quyền tha thứ cho người khác. Chính tôi đây cũng là một tội nhân cần được tha thứ. Đấng duy nhất có thể tha thứ cho chúng ta là Đức Chúa Trời vì Ngài là Đấng vô tội." Ông qua đời chẳng bao lâu sau hôm tôi đến an ủi ông tại bệnh viện. Sự việc này hiện lên tích tắc trong trí tôi như một thước phim ngắn.
"Thưa bà (tôi dùng chữ Samonin trong tiếng Đại Hàn để xưng hô với bà vợ của vị Mục sư), chắc là có sự hiểu lầm nào đó ở đây. Tôi đã cung hiến nhà thờ cùng tư thất Mục sư cho Ngài thì làm thế nào tôi có thể lấy lại được?” Mọi người đều gật gù như thể đã tìm ra được lời giải đáp cho một câu đố hóc búa.
Hội Thánh nhóm lại vào buổi chiều để dự lễ cung hiến của nhóm phụ nữ. Họ mời tôi giảng và tôi cầu xin Ngài giúp đỡ. Trong lúc đứng tại nơi bục giảng, tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ở giữa vòng hội chúng.
Ngài đã giữ lời hứa của Ngài và đáp lời cầu xin của tôi. Ba mươi ba năm trước khi tôi ra đi, trong nước mắt tôi đã cầu xin Ngài giữ gìn Hội Thánh này. Giờ thì bông trái đã xuất hiện. Họ đã được chăm sóc chu đáo bởi Đấng Chăn Hiền Lành và đang trưởng thành về mặt thuộc linh. Các Trưởng lão, các Chấp sự cam kết phục vụ một cách trung tín Thân thể Ngài và đền thờ Ngài.
Tôi dâng lên Ngài sự ca ngợi và lời cảm tạ chân thành nhất từ trái tim tôi. Làn gió đầu mùa hạ thật trong lành và tươi mát vô cùng. Nắng chiều rực rỡ chiếu qua khung cửa sổ nhà thờ giống như tình yêu của Ngài đang phủ che cả Hội chúng.
Ba mươi ba năm trước tôi rời ngôi nhà thờ này trong nước mắt. Còn bây giờ, người phụ nữ hạnh phúc nhất thế giới này đã trở lại để chia sẻ mười hai giỏ đựng đầy niềm hạnh phúc của mình. Bà đang đứng đó trong những giọt nước mắt vui mừng của một đầy tớ Chúa cao tuổi. Chính sự sáng của Ngài đã xây dựng chiếc cầu muôn đời của sự tha thứ và sự hòa giải giữa chúng ta với Ngài. Cơn mưa ngày hôm qua khiến cho khung cảnh bên ngoài nhà thờ tươi hơn, xanh hơn trong muôn sắc màu của đầu mùa hạ.
Khi được ánh sáng của Ngài chạm đến thì vật thọ tạo của Ngài, thiên nhiên và con người đều trở nên những hình ảnh đẹp đẽ và tràn trề hạnh phúc như Ngài đã định sẵn từ buổi sáng thế. Tâm hồn tôi sải cánh trong niềm ao ước sâu xa về sự hiện diện vĩnh cửu của Ngài, như những đợt sóng không ngừng xô trên dòng sông sự sống, đức tin, hy vọng và tình yêu thương.
“Ôi! Quả thật tôi là người đàn bà hạnh phúc.”

* * *
Thời tiết ấm áp ở Los Angeles cùng cơn mưa gần nhất khiến cho cây tử đinh hương nở hoa sớm. Mùi thơm của hoa tử đinh hương lan tỏa đến cửa sổ của phòng cầu nguyện nhỏ của tôi ở trong góc nhà thờ. Mùi thơm thật êm dịu, như chính Ngài vậy.
Hôm nay là ngày Chúa Nhật, ngày của Đức Chúa Trời.
Tôi sửa soạn chính mình bằng lời cầu nguyện, và tôi cảm thấy phấn chấn khi biết mình sắp gặp lại gia đình đức tin yêu dấu của mình. Mỗi lần tôi chia sẻ về tình yêu kỳ diệu của Ngài là mỗi lần lòng tôi và chén tôi đầy tràn niềm hạnh phúc trong Ngài. Hôm nay tôi đứng trước gia đình để chia sẻ không chút ràng buộc về kho tàng “Hạnh Phúc” quý báu trong lòng tôi.
Tôi cầu nguyện để những người bền lòng và qua thời gian sẽ tìm được hạnh phúc thật và qua họ niềm hạnh phúc đó sẽ được chia sẻ cho những người khác nữa. Nếu có ai đó tìm được niềm hạnh phúc này nơi bạn thì đó sẽ là phước hạnh lớn lao của cả hai chúng ta.
Làn gió mùa xuân quyện cùng mùi thơm của hoa tử đinh hương. Và một lần nữa lòng tôi ngập tràn niềm hạnh phúc.