Lời Kinh Thánh

Chúng nghe vậy, lòng như kim châm, bèn hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ khác rằng: “Hỡi anh em, chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ bảo rằng: “Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Jêsus Christ chịu báp-têm, để tội mình được tha, rồi sẽ nhận lãnh sự ban tứ là Thánh Linh . Công vụ 2:37-38

Wednesday, October 3, 2012

Người Đàn Bà Hạnh Phúc --8


Giỏ Đầy Thứ Tám: 

CON CÓ THỂ NÀO ĐI QUA TRŨNG TỘI LỖI CHĂNG?

Tới Trũng Achor 

Những Viên Ngọc Trong Bùn 


Đấng Đã Xuống Nơi Thấp Nhất .


Tới Trũng Achor
Ngay sau hôm được Chúa nhắc nhở về lời hứa nguyện bị lãng quên của mình, tôi ghi danh vào Đại Chủng Viện Kinh Thánh Miền Nam California. Đây là Trường Kinh Thánh duy nhất dạy bằng tiếng Đại Hàn lúc bấy giờ. Tôi không hề có ý định sau khi tốt nghiệp sẽ làm Mục sư. Đơn giản tôi chỉ muốn biết thêm về Ngài đang khi tôi có thời gian.

Tốt nghiệp xong, Chánh văn phòng của Hội Thánh Trưởng Lão đã bổ nhiệm tôi làm Mục sư Phụ tá tại một nhà thờ Đại Hàn nhỏ. Tôi đấu tranh với bản thân mình về danh hiệu đó vì tôi không muốn trở thành Mục sư.
Nhưng Ngài đến với tôi và phán rằng, “Tại sao con lại chần chừ? Con lo lắng về chức vụ ấy chăng? Chẳng phải con đã hứa với Ta rằng con sẽ làm mọi sự vì cớ Ta hay sao?” Ngay lập tức, tôi ăn năn tội của mình và nhận lời làm Mục sư Phụ tá.
Một ngày kia, văn phòng của Hội Thánh Trưởng Lão nhắn tôi đến để tường trình về công việc của mình. Tôi đến văn phòng và thấy mình được giao cho nhiệm sở mới. Cần có Mục sư đến giúp cho những phụ nữ người Đại Hàn đang sinh sống tại căn cứ Không Quân Tucson, Tiểu Bang Arizona. Ứng cử viên đủ tiêu chuẩn phải là một nữ Mục sư cao tuổi có thể được xem như một “người mẹ đức tin.” 
Hội đồng tuyển chọn quyết định chọn tôi vì tôi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện nhất. Họ muốn cử hành lễ tấn phong Mục sư và làm lễ tiễn tôi đi.


“Ồ không, chuyện này là như thế nào đây? Tôi không thể đi được.”
Ngay từ đầu, tôi đã không có ý định làm Mục sư Phụ tá, và càng không thể trở thành Mục sư trọn thời gian. Tôi chỉ muốn hỗ trợ Hội Thánh một cách thầm lặng từ phía sau. Tôi xin họ cho tôi một vài ngày để tôi có thể cầu nguyện. Tôi thậm chí còn không rõ việc làm Mục sư trọn thời gian và gây dựng ngôi nhà thờ của chính mình là như thế nào nữa. Nhưng nếu tôi không nhận lời thì kể như sự cam kết của tôi đối với Ngài bị phá vỡ. Tôi băn khoăn lo lắng và không thể chợp mắt trong suốt những ngày tôi cầu nguyện với Ngài.


Ngài lại đến, và bằng giọng nói dịu dàng, Ngài phán với tôi, “Con gái của Ta, tại sao con lại lo lắng?”
“Con không thể làm được. Con không thể đi Tucson.”
“Sao con lại nghĩ mình không làm được? Hãy nhìn lại cuộc đời của con. Con có tìm thấy được việc gì mà con làm bằng sức của mình không? Chính sự hiện diện của Ta ở trong con đã giúp con thực hiện mọi việc đó. Chẳng phải con đã lớn tiếng hát bản thánh ca rằng con sẽ đem Tin Lành thậm chí đến trũng Achor hay sao?”
Tôi không thể tranh luận với Ngài. Ngài biết từng ngõ ngách của tâm hồn tôi. Và sự hổ thẹn về đời sống vị kỷ của tôi bị phơi bày ra trong ánh sáng của Ngài. Một lần nữa, tôi lại tan vỡ ra trước Chúa và ăn năn về đức tin yếu đuối của mình.”


Vào lúc đó, tôi có thành kiến với những phụ nữ Đại Hàn lấy lính Mỹ và tôi không thể công khai nói tiếng “vâng”. Nhưng tôi ăn năn về những thành kiến đó cùng những tư tưởng ích kỷ của mình. Tôi phải thừa nhận rằng niềm kiêu hãnh vẫn còn ngự trị trong tôi. Nó nói lên sự hư hoại của con người tôi. Tôi vẫn còn cách xa lối sống thiên thượng.
Ngài đến và phán cách rõ ràng, “Con gái yêu dấu của Ta, tính cách của con và của họ đều như nhau. Điểm khác biệt duy nhất là họ xuất thân từ gia đình nghèo và không được giáo dục đến nơi đến chốn, còn con được sanh ra và nuôi dưỡng trong một gia đình giàu có. Con sống đầy đủ, sung túc trong khi họ phải sống trong đói khổ và bần hàn. Con mắc nợ họ nhiều lắm.”
Vâng, bao giờ Ngài cũng đúng. Một lần nữa, Ngài sửa dạy tôi khi tôi cố xét đoán người khác bằng diện mạo bên ngoài của họ. Sự công bình của Ngài đã đập vỡ bức tường thành kiến vốn châm rễ sâu trong lòng tôi. Tôi xưng tội với Ngài.
“Con sẽ vâng theo Chúa. Con sẽ đến đó và rửa chân cho họ. Chúa đã cho con thấy Ngài đã rửa chân cho những người đánh cá thất học và khiến họ trở nên môn đồ của Ngài như thế nào. Và Nước Ngài đã được rao truyền đi khắp thế giới qua những con người đó. Tôi nói, “Vì Chúa đã khiến những con người ấy trở nên nền móng của Nước Ngài thì chính mình con đây, con sẽ ra đi .”


“Nhưng Chúa ơi, Ngài biết con không có tài ăn nói và thiếu đức tin. Xin hãy ban cho con cây gậy của Ngài.”
Ngài đã ghi khắc lời hứa của Ngài vào tâm khảm tôi bằng chính tiếng phán của Ngài, giống như lúc Ngài khắc Mười Điều Răn vào hai bảng đá và trao cho Môi-se.
‘Trong cơn gian truân, Ta sẽ ở cùng con,
Khi con mở miệng, Ta sẽ nói thay con,
Ta sẽ chữa lành cho những người bệnh mà con đặt tay cầu nguyện, 
Con gái yêu dấu của Ta, hãy đi trong bình an vì đó là điều Ta muốn con làm.”
Một vài ngày sau, tôi bay đến Tucson, Arizona với cây gậy có ba lời hứa của Ngài. Lúc ấy, tôi được năm mươi tám tuổi.


Những Viên Ngọc Trong Bùn

Hội Thánh phát hiện có một số người lấy cắp tiền trong giỏ tiền dâng bỏ vào túi riêng của mình trong lễ thờ phượng sáng Chúa Nhật. Những việc làm không thể tưởng tượng ấy đã nhiều lần làm tôi nản chí.
Một số người lê dép đến buổi nhóm thờ phượng sáng Chúa Nhật khi buổi nhóm sắp kết thúc, một số nhai kẹo cao su trong nhà thờ cách trơ trẽn, một số đến nhóm trong bộ đồ ngủ. Gương mặt của họ cho tôi biết họ vừa mới thức dậy; họ ngáp dài mà không cần phải giấu giếm gì. Họ chửi rủa, đánh đập con cái; họ thường la hét mà không có một lý do rõ ràng nào cả.


Khi tôi nhìn họ từ trên bục giảng, tôi có cảm tưởng đây là nhóm người không phải ra từ nơi thờ phượng Chúa mà từ khu chợ lộn xộn trên đường. Nếp sống của họ nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. 
Một số người thậm chí không viết nỗi tên của mình. Họ được phân ra theo từng thành phần, như vợ sĩ quan, vợ hạ sĩ quan, vợ người da trắng và vợ người da đen. Họ ẩu đả nhau không biết bao nhiêu lần. Họ thường say rượu và ném chai lọ ra đường. Có những lúc họ đánh nhau cho đến khi tất cả đều đổ máu. Họ không chải đầu, cũng không trang điểm.
Tôi cố gắng để yêu thương họ, nhưng không kéo dài được bao lâu. Kiên nhẫn với những con người này là một việc không dễ dàng chút nào. Mỗi ngày, tôi quỳ gối cầu nguyện không biết bao nhiêu lần để tôi có thể nhìn họ bằng ánh mắt yêu thương của Ngài.
Nhiều ngày trôi qua mà họ không tỏ ra có chút tiến bộ nào. Trong đôi mắt tuyệt vọng của họ, tôi nhìn thấy những vết thương sâu hoắm và những vết sẹo từ sự phân biệt đối xử của con người và xã hội. Tôi khám phá ở những con người này, những suy nghĩ tự ti đang tranh chấp với lòng tự trọng cao độ của họ. Tôi nhận thấy những vết thương lòng của họ đang được che đậy bằng sự kiêu kỳ một cách giả tạo. Họ cố gắng sống còn bằng cách la hét trong khi bắt nạt kẻ khác.


Buổi đầu họ gặp tôi, trong đôi mắt họ đầy ắp sự ghen ghét. Nhưng thời gian trôi qua, cũng chính những đôi mắt ấy mách bảo tôi rằng họ muốn nhận được tình yêu thương, sự an ủi và sự thừa nhận từ người khác. Tôi nhận thấy họ cũng là những con gái của Chúa. Những con người này phải sống xa quê hương và không được chồng mình yêu thương. Họ đang chịu đựng một cuộc sống cô đơn và thiếu tình yêu thương.
Cuối cùng, tôi cũng đã nhìn thấy con tim của họ. Tôi xắn tay áo và quỳ gối trước họ. Tôi rửa chân họ trong nước của niềm an ủi và sự hy vọng. Khi tôi chăm sóc những em bé bị bỏ rơi trong sa mạc như con của mình thì cũng chính lúc ấy tôi đang đưa từng linh hồn đến với Chúa. Tôi xoa dịu những vết thương của sự cô đơn hằn sâu trong lòng họ. Tôi thả chiếc gàu xuống giếng yêu thương không biết bao nhiêu lần. Đó là tình yêu thương vô điều kiện.
Cuối cùng những tâm hồn đóng chặt của họ đã có hồi âm. Họ đến với tôi và mở lòng ra một các chậm rãi và thận trọng. Tôi dạy những người chưa bao giờ có điều kiện học hành những điều cơ bản nhất trong cách sống hằng ngày. Tôi dạy họ cách xử sự như một người phụ nữ, một người vợ. Tôi dạy họ cách chăm sóc nhà cửa. Tối thiểu một giờ trước khi chồng họ đi làm về, họ phải dọn dẹp sạch sẽ căn nhà hay căn hộ của mình, phải tắm rửa, làm tóc, trang điểm, bận đồ sạch sẽ và nấu món ăn mà chồng họ ưa thích. Tôi dạy họ như người mẹ dạy dỗ con mình.


Tôi dán lên vách một tấm biểu đồ lớn để thể hiện mức độ vâng lời của họ. Ai làm theo những điều tôi dạy thì sẽ nhận chữ “O”, bằng không sẽ là chữ “X” bên cạnh tên của mình. Sự cô đơn bấy lâu bị khinh khi, không ai đếm xỉa tới của họ nay được đáp lại bằng một tình yêu vô điều kiện. Họ hưởng ứng bằng cách vâng phục từng chút một. Một khoảng thời gian sau, tôi thấy trên biểu đồ xuất hiện nhiều chữ “O” hơn là chữ “X.”
Tôi dạy họ sự hòa bình, vốn sẽ xóa đi sự ngăn cách giữa các sĩ quan và quân lính, giữa da trắng và da đen. Họ bắt đầu nhận biết rằng không có sự phân biệt tầng lớp trong nước của Ngài. Tại nơi đó không hề có sự khác nhau của màu da và cấp bậc.
Hầu hết những người phụ nữ ấy không đi làm nên sáng chiều họ cứ lui tới căn hộ của tôi như ngôi nhà của mình. Tôi nấu những món ăn Đại Hàn mà họ ao ước được ăn đã lâu. Trong lúc họ ăn, tôi nói cho họ nghe về Chúa. Họ nghe tôi kể một câu chuyện nhiều lần, nhưng vẫn cứ muốn được nghe đi nghe lại. Đức tin đến từ sự người ta nghe.
Có những lần bọn trẻ con bị bệnh, tôi đặt tay cầu nguyện cho chúng và cơn sốt biến mất như lời Ngài đã hứa với tôi. Sau đó chúng đi ngủ với mẹ và được nghe kể những câu chuyện mà tôi đã kể cho mẹ của chúng nghe.


Thánh Linh của Ngài đã đem cơn mưa phước lành tưới mát những ngọn đồi và những thung lũng đã bị chiếm ngự bởi linh của sự khô khan và đổ vỡ. Bức tường ngăn cách giữa họ đã biến mất. Những nụ cười trước đây không thấy thì bây giờ đã xuất hiện trên gương mặt của những con người ấy. Những vết thương lòng dần dần được rịt lành.


Đấng Đã Đến Nơi Thấp Nhất

“Hãy chỉ cho tôi thấy thì tôi sẽ tin lời bà.”
Tôi phục vụ bữa trưa cho một phòng đầy người. Sau khi họ ra về, tôi đi nằm nghỉ trên ghế trường kỷ. Lúc ấy, bà Thompson bước vào phòng và bắt đầu kiếm chuyện với tôi. Chồng bà là một sĩ quan da đen; khắp khu căn cứ đâu đâu cũng nghe tiếng xấu của bà. Bà say rượu cả ngày lẫn đêm và là một kẻ quấy rối xã hội.


Khi bà say rượu, bà hét lên rằng đây không phải là chỗ của bà. Có người nói bà là một trong số ít người có bằng Trung học. Họ gọi bà là một người trí thức. Tôi ở đây được vài tháng và bà là người duy nhất không chào tôi. Bà tranh luận với những phụ nữ khác và hỏi họ tại sao lại đi nhà thờ. Bà là nữ chúa của sự tối tăm; không một ai có thể đến gần bà.
Tôi cầu nguyện rất nhiều cho bà. Thế rồi một ngày kia, bà đến trước cửa nhà tôi. Dường như bà quyết tâm đấu với tôi trận cuối cùng. 
“Tôi sẽ tin nếu bà chỉ cho tôi thấy. Hãy chỉ đi!”
Làm sao tôi có thể chỉ cho bà thấy điều mà một người chỉ có thể thấy được bằng con mắt đức tin đây? Tôi giúp bà bình tĩnh trở lại và bắt đầu giải thích cho bà. Tôi vẽ những hình ảnh ra giấy.
“Bà Thompson ơi, xin hãy lắng nghe những điều tôi sắp nói đây. Bà có thể hiểu dễ dàng vì bà là một người thông minh và có học. Có hai thế giới khác nhau: thế giới hữu hình và thế giới vô hình. Chẳng hạn, người ta có thể nhìn thấy bà nhưng tình yêu và sự ghen ghét của bà thì không ai có thể thấy được. Dầu vậy, nó vẫn ở trong bà. Nếu con gái bà đến hỏi bà có yêu cháu không thì chắc chắn bà sẽ trả lời có. Và rồi em xin bà cho em thấy tình yêu đó của bà. Bà thật sự thương yêu em và bà biết tình yêu đó hiện hữu nhưng làm cách nào bà có thể chỉ cho em thấy tình yêu đó được? Có thể bà sẽ trả lời rằng, “Mẹ yêu con. Hãy tin lời mẹ.”


Tôi vẽ một bức hình trên giấy. Đó là một thế giới có hoa cỏ, có loài vật, những chú chó con, những con thỏ và con người. Nhưng bên cạnh đó còn có một thế giới khác nữa.
“Bà có thể nhìn thấy thế giới hữu hình, nhưng còn có một thế giới vô hình nữa. Và đó là thế giới cao siêu nhất, tồn tại trên tất cả các thế giới khác. Thế giới này vượt quá sự khôn ngoan của loài người. Một con chó không thể hiểu hết tâm trí của chủ mình. Cũng giống như vậy, thế giới tâm linh chỉ có thể được nhìn thấy bằng con mắt đức tin mà thôi.”
Tôi vẽ hình và giải thích cho bà. Bà gật đầu tỏ vẻ đồng ý, nhưng rồi bà lại tiếp tục tranh luận.
“Thưa Mục sư, tôi vẫn không thể hiểu nổi. Hãy chỉ cho tôi thấy Đấng mà bà đặt lòng tin thì tôi sẽ tin.”
Tôi cảm thấy mệt mỏi. Sau cùng tôi bỏ cuộc. Tôi cầm tay bà và bắt đầu cầu nguyện tha thiết trong lòng. Tôi không thể chỉ cho bà. Điều ấy chỉ có thể thực hiện được bởi đức tin mà thôi. 


Tôi cảm thương cho bà. Bà có mắt nhưng không thể thấy thế giới tâm linh. Tôi cầu xin Ngài bày tỏ lòng thương xót đối với bà, để bà có thể nhìn thấy được Ngài. Lời cầu nguyện khẩn thiết của tôi trở thành tiếng khóc thổn thức. Một lúc sau, tôi mở mắt ra và thấy bà đang ngồi im bất động.
Bà ngồi không nhúc nhích khoảng mười đến mười lăm phút. Thình lình, bà gục đầu vào lòng tôi và cất lên tiếng khóc.
“Mục sư ơi, tôi đã nhìn thấy rồi. Tôi trông thấy rất rõ. Những điều Mục sư nói với tôi là sự thật.”
Giọng nói của bà đã trở nên nhẹ nhàng hơn. Tôi trấn an bà và hỏi bà đã thấy những gì. Bà kể bà thấy trước mặt mình là một cây thập tự lòa sáng. Cả lúc nhắm mắt lẫn lúc mở mắt, bà đều nhìn thấy cây thập tự ấy. 


Ồ! Lại chính là Ngài đã làm điều đó. Vì lòng thương xót đối với bà, Chúa đã bày tỏ cho bà thế giới không nhìn thấy được của Ngài. Sau đó, tính tình của bà thay đổi một cách mãnh liệt. Bà đi nhà thờ. Bà đi ra và khởi sự nói cho người khác nghe về Chúa. Bà đi thăm viếng từng căn nhà, căn hộ và mời họ đi nhà thờ. Tuần nào bà cũng đem vài người đến nhà thờ.
Đây là một chức vụ khó khăn đòi hỏi nhiều công sức. Tôi phải lao động cực nhọc hơn khi gieo hạt, nhưng đồng thời sự ngọt ngào của mùa gặt cũng tăng lên gấp bội. Họ là những người thất học và dữ dằn, nhưng họ cũng đẹp đẽ và chân chất.
Ở đâu cũng có dấu vết của Ngài. Ngài đẩy từ phía sau, kéo từ phía trước và nhấc lên từ trên cao. Họ được chữa lành mỗi khi linh hồn và con tim họ được bàn tay yêu thương của Ngài rờ đụng đến. Và họ đến với Ngài từng bước một. Họ từng là những người lấy trộm tiền dâng, nhưng giờ đây họ chuẩn bị tiền dâng trong phong bì một ngày trước lễ thờ phượng với lòng biết ơn sâu xa. Đã có lần họ bị chia rẽ và cãi vả với nhau về đủ mọi chuyện; còn bây giờ họ cảm thông, giúp đỡ lẫn nhau và che đậy những sự yếu đuối của nhau.


Tủ lạnh của tôi đầy ắp thức ăn và trái cây mà họ âm thầm mang ra từ kho lương thực của khu căn cứ. Họ thường khoe là đem được một số kẹo cho tôi. Họ từng say rượu cả ngày lẫn đêm, nhưng giờ đây họ tránh xa rượu. Họ được biến đổi trở nên những người mẹ tốt và những người vợ biết vâng phục chồng. Trong quá trình thay đổi đó, người chồng sẵn sàng làm bất cứ điều gì để có thể giúp đỡ vợ mình. Khi vợ họ cần gặp tôi, họ liền đưa vợ họ đến dù là có trễ bao nhiêu đi chăng nữa. Họ thường ngủ gật trong khi chờ đợi chúng tôi kết thúc cuộc nói chuyện.
Sự đụng chạm đầy yêu thương của Ngài đã thay đổi con người họ. Ngài chữa lành và xoa dịu những vết thương trong lòng họ và ban cho họ danh xưng mới khi họ được sanh lại như một Cơ-đốc Nhân thật sự. Đã có lúc, những đôi mắt của họ đỏ ngầu vì say rượu và vì những cuộc ẩu đả. Nhưng giờ đây, những đôi mắt đó đã trở nên tinh sạch và sáng ngời hy vọng thiên thượng. Những môi miệng từng đầy dẫy những lời xấu xa giờ đây được thay thế bằng những môi miệng của sự ca ngợi và những lời làm chứng về danh của Ngài.
Họ từng bị khinh bỉ bởi những định kiến của xã hội, nhưng giờ đây họ mạnh dạn cầm tay Ngài bước ra. Họ hát về niềm hy vọng trong bộ áo cứu rỗi màu trắng mà Ngài đã ban tặng cho họ. Họ trở nên "những người phụ nữ hạnh phúc" từng ngày một.
Qua những sự mệt mỏi và khó chịu trong người, tôi nhận ra mình đang bị tiểu đường. Sức khỏe của tôi xuống dần và tôi không thể tiếp tục trong chức vụ được nữa. Tôi thông báo cho Văn phòng của Hội Thánh Trưởng Lão và họ chấp thuận cho tôi trở lại Los Angeles. 


Trước ngày tôi ra đi, tất cả những người chồng đều xin nghỉ phép một ngày. Chúng tôi cùng đến thăm một viện bảo tàng. Mọi người dường như rất vui về mọi sự trừ việc ra đi của tôi. Chỉ nhìn thấy họ cũng đã làm rộn lên trong tôi niềm hạnh phúc rồi. Lòng tôi cất tiếng ca ngợi Ngài trong lúc Lời Ngài vang vọng, “Tình yêu thương hay nhịn nhục, tình yêu thương chẳng kiếm tư lợi, tình yêu thương nín chịu mọi sự…”
Vào ngày tôi ra đi, cái sân bay nhỏ chật ních những phụ nữ ở nhà thờ cùng với chồng của họ. Những người có mặt ở đó có vẻ tò mò khi nhìn thấy một phụ nữ cao tuổi người Châu Á đang được mọi người vây quanh và ôm chầm lấy.
Không còn có sự phân biệt nào nữa giữa sĩ quan và quân lính, giữa da trắng và da đen khi tất cả chúng tôi nắm tay nhau cùng chia sẻ nỗi buồn vào phút tiễn biệt. 
Họ là những anh chị em hiệp một trong Đấng Christ. Giữa họ giờ đây không còn bức tường ngăn cách nào nữa mà thay vào đó là bức tường yêu thương đẹp đẽ đang bao bọc lấy họ.


Dòng sông bình an phát xuất từ nơi Ngài tuôn tràn trong lòng họ khi họ nhóm lại trong danh Ngài. Chính Ngài đã bao bọc họ bằng bức tường của tình yêu thương. Và cũng chính Ngài đã sơn lên mặt trong của bức tường ấy tình yêu thương, sự bình an, sự hòa giải, sự khiêm nhường, sự nhơn từ và sự nhịn nhục rực rỡ sắc màu thiên thượng. Ngài thật là Đức Chúa Trời hằng sống. Ánh sáng tình yêu của Ngài chiếu rọi từng ngõ ngách tối tăm của thị trấn nhỏ trong khu căn cứ Không quân xa xôi ở Tucson, Arizona ấy.
Ngài vui mừng kêu gọi những linh hồn bị lãng quên. Ngài gìn giữ họ trong cánh tay của Ngài, Ngài đưa họ lên và khiến họ trở nên con cái Ngài. Khi tôi nhìn họ qua hàng nước mắt lúc bước lên máy bay, Ngài phán nhỏ nhẹ trong lòng tôi, “Ta đến để giải cứu tội nhân, chữa lành những kẻ bệnh tật và tìm kiếm những linh hồn lạc mất.”sự dâng mình của tôi.